Cuộc cách mạng số được khởi nguồn từ vài thập niên trước hiện đang tăng tốc nhanh nhờ sự phát triển mạnh mẽ của Internet tốc độ cao, điện toán phát triển mạnh với tốc độ tính toán tăng nhanh cũng như các cảm biến có giá ngày càng rẻ và chất lượng cao hơn. Nhờ cuộc cách mạng số nên có sự kết nối ngày càng chặt chẽ giữa thế giới thực và không gian số (cyber space), giúp giảm mạnh chi phí giao dịch, qua đó tạo ra các tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng và phát triển.
Theo định nghĩa của Bộ Thông tin và Truyền thông: “Chuyển đổi số (Digital transformation) là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện của tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau”.
Chuyển đổi số có ba cấp độ:
- Cấp độ 1 - Số hóa thông tin (digitization): là việc chuyển đổi các thực thể (đối tượng, vạn vật...) từ dạng vật lý (analog) sang dạng số, tạo ra phiên bản số của các thực thể, có thể thấy như hoạt động số hóa “tài liệu cứng” hay các văn bản giấy chuyển thành file “mềm” có thể lưu trữ trên máy tính. Đây cũng có thể xem là bước tin học hóa, là một phần của quá trình chuyển đổi số.
- Cấp độ 2 - Số hóa quy trình (digitalization): là cấp độ xác định cách thức hoạt động của tổ chức dựa trên các công nghệ số và dữ liệu được số hóa. Với các đơn vị tổ chức hay doanh nghiệp, thì giai đoạn này cần tạo ra hay đổi mới mô hình hoạt động hay kinh doanh (business model) của tổ chức hay doanh nghiệp để thích nghi với sự xuất hiện của các môi trường số hóa, chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi toàn diện sử dụng công nghệ số hóa và dữ liệu để tạo ra giá trị mới lớn hơn cho tổ chức. Sau quá trình số hóa, dữ liệu số đã tạo thuận lợi cho mỗi doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có thể quản lý hiệu quả hơn, song phần lớn cách thức doanh nghiệp sử dụng các tài nguyên số này vẫn theo phương pháp truyền thống. Việc số hóa hoạt động vẫn chỉ là sử dụng dữ liệu số, xử lý hay tự động hóa dữ liệu nhằm đơn giản cách thức làm việc. Ở cấp độ này, cách thức làm việc vẫn mang tính truyền thống nhưng nhanh hơn và tốt hơn thông qua việc truy cập dữ liệu ngay lập tức mà không mất công tìm kiếm bản cứng dữ liệu trong các kho lưu trữ.
- Cấp độ 3 - Chuyển đổi số (Digital transformation): là việc mỗi cá nhân, tổ chức thực hiện thay đổi số toàn diện theo mô hình hoạt động mới ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực từ cấp lãnh đạo cao cấp tới mọi thành viên, từ năng lực số tới kinh tế số, chính phủ số, xã hội số và văn hóa số. Để hoàn thành cấp độ này, quốc gia hay mỗi tổ chức cần xây dựng lộ trình kế hoạch và các biện pháp thực thi các thay đổi này với từng mốc thời hạn cụ thể. Chuyển đổi số đòi hỏi từng tổ chức, doanh nghiệp phải xem xét lại toàn bộ mọi thứ đang vận hành, từ hệ thống nội bộ đến tương tác, quản lý quan hệ khách hàng, đối tác, cả trực tuyến và trực tiếp để tìm ra cách thức thay đổi hiệu quả hơn, hay nâng cao các trải nghiệm tích cực hơn.
Bước đầu tiên là thay đổi nhân thức và tư duy mới;
Xây dựng chiến lược và lộ trình thực thi cụ thể rõ ràng;
Tạo dựng năng lực số (cả ở nhân lực, hạ tầng và văn hóa số);
Xác định công nghệ cốt lõi phù hợp;
Thiết kế mô hình kinh doanh, hoạt động;
Tiến hành chuyển đổi quy trình, đi từ nhỏ đến lớn, từ thí điểm tới toàn diện.
(Mở rộng để đọc toàn bộ nội dung)
1. Điện toán đám mây và điện toán biên
Điện toán đám mây hay còn gọi là Cloud Computing, là mô hình cung cấp các tài nguyên máy tính cho người dùng thông qua internet. Nguồn tài nguyên này bao gồm rất nhiều thứ liên quan đến điện toán và máy tính. Ví dụ như: phần mềm, dịch vụ, phần cứng,… và sẽ nằm tại các máy chủ ảo (đám mây) trên mạng. Người dùng có thể truy cập vào bất cứ tài nguyên nào trên đám mây. Vào bất kỳ thời điểm nào và ở bất kỳ đâu, chỉ cần kết nối với hệ thống internet. Trong khi đó, điện toán biên đề cập đến việc xử lý dữ liệu trên các thiết bị như điện thoại thông minh.
Các nhà cung cấp dịch vụ đám mây như Amazon, Google và Microsoft cho phép các công ty lưu trữ tất cả cơ sở hạ tầng CNTT quan trọng trong đám mây của họ thay vì trong các thiết bị kỹ thuật số của một tổ chức để giảm chi phí để duy trì và vận hành các hệ thống, phần mềm và dữ liệu riêng lẻ. Điện toán biên nằm ở gần các thiết bị đầu cuối chứ không phải ở xa trong các trung tâm dữ liệu từ xa. Thay vì gửi mọi thông tin được thu thập bởi máy ảnh, máy quét, thiết bị đầu cuối cầm tay hoặc cảm biến đến đám mây để xử lý, các thiết bị biên sẽ tự thực hiện một số hoặc tất cả quá trình xử lý, tại nguồn nơi dữ liệu được thu thập.
2. Dữ liệu lớn (Big data)
Dữ liệu lớn là tập hợp dữ liệu lớn, đa dạng, thay đổi nhanh và phức tạp đến nỗi những công nghệ hay phần mềm truyền thống không có khả năng xử lý trong một khoảng thời gian nhất định.
Trong kỷ nguyên kỹ thuật số hiện nay, thế giới của chúng ta chứa đầy dữ liệu. Càng có nhiều dữ liệu, chúng ta càng dễ dàng có được những hiểu biết mới và thậm chí dự đoán được những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Bằng cách phân tích khối lượng dữ liệu bằng các thuật toán thông minh, có thể phát hiện ra các vấn đề và các mối quan hệ mà trước đây chúng ta chưa biết. Và khi chúng ta có thể hiểu mối quan hệ giữa các điểm dữ liệu, chúng ta có thể dự đoán tốt hơn các kết quả trong tương lai và đưa ra quyết định thông minh hơn về những việc cần làm tiếp theo.
3. Trí tuệ nhân tạo và Học máy
Trí tuệ nhân tạo (AI: Artificial Intelligence) và học máy (Machine learning) liên quan đến khả năng nhận thức và hành động một cách thông minh của máy móc, có nghĩa là chúng có thể đưa ra các quyết định, thực hiện các nhiệm vụ và thậm chí dự đoán kết quả trong tương lai dựa trên những gì chúng thu nhận được từ các nguồn dữ liệu đầu vào.
Trong tương lai AI sẽ biến đổi thế giới của chúng ta và làm thay đổi cách chúng ta sống trong đó. Hiện tại, nó đã được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta như công cụ tìm kiếm của Google, cung cấp các đề xuất sản phẩm trên Amazon và các đề xuất được cá nhân hóa mà chúng ta nhận được từ Netflix và trong quy trình bảo mật cho việc sử dụng thẻ tín dụng để tránh bị lừa đảo. AI và học máy cũng là nền tảng mà nhiều xu hướng công nghệ khác được xây dựng. AI cung cấp cho máy móc khả năng thực hiện một loạt các quy trình giống như con người, như nhìn (ứng dụng nhận dạng khuôn mặt), viết (thiết bị chatbot) và nói (ứng dụng Alexa). AI sẽ thâm nhập vào cuộc sống của chúng ta nhiều hơn nữa khi thiết bị máy móc ngày càng hoạt động thông minh hơn.
4. Internet vạn vật (IoT)
Internet vạn vật (IoT: Internet of Things) là đề cập đến hàng tỷ thiết bị vật lý trên khắp thế giới được kết nối với internet, thu thập và chia sẽ dữ liệu.
Điện thoại thông minh là thiết bị thông minh đầu tiên mà nhiều người trong chúng ta tiếp xúc, nhưng giờ đây chúng ta có đồng hồ thông minh, TV thông minh, tủ lạnh thông minh và sẽ sớm có mọi thứ thông minh trong thời gian tới. Hiện nay chúng ta có khoảng 20 tỷ thiết bị thông minh đang hoạt động nhưng dự kiến con số này sẽ tăng lên ít nhất 200 tỷ thiết bị thông minh được kết nối mạng trong tương lai. Những thiết bị thông minh này chịu trách nhiệm cho sự bùng nổ dữ liệu và đang thay đổi nhanh chóng thế giới của chúng ta và cách chúng ta sống trong đó. Khả năng các máy móc kết nối và chia sẻ thông tin với nhau là một phần quan trọng của IoT.
5. Blockchains
Blockchain hay còn gọi là chuỗi khối là hệ thống cơ sở dữ liệu cho phép lưu trữ và truyền tải các khối thông tin được liên kết với nhau nhờ mã hóa.
Trong thời đại kỹ thuật số ngày nay, việc lưu trữ, xác thực và bảo vệ dữ liệu là những thách thức lớn đối với nhiều tổ chức, doanh nghiệp. Công nghệ blockchain như là một dạng sổ cái phân tán, dạng mở, hứa hẹn một giải pháp thiết thực và siêu an toàn cho vấn đề này. Do đó, blockchain là một công cụ ngày càng hấp dẫn cho các ngành như ngân hàng và bảo hiểm. Nó sẽ biến đổi cách các ngân hàng hoạt động và cách chúng ta giữ tài sản của mình.
6. Robot và Cobots
Robot ngày nay có thể được định nghĩa là những cỗ máy thông minh có thể hiểu và phản ứng với môi trường của chúng và thực hiện các nhiệm vụ thông thường hoặc phức tạp một cách tự động.
Trong thời đại dựa trên dữ liệu này, đó là trí thông minh và khả năng hoạt động một cách tự động của các robot. Sự nổi lên của loại robot hợp tác, hay còn gọi là cobots, là thế hệ robot mới nhất được thiết kế để hoạt động cùng với con người như những đồng nghiệp, nhằm hỗ trợ con người, tương tác an toàn và dễ dàng với con người.
7. Các phương tiện tự lái
Một phương tiện tự lái có thể là một chiếc xe hơi, xe tải, tàu hoặc phương tiện khác mà có thể cảm nhận được những gì đang diễn ra xung quanh nó và hoạt động mà không có sự tham gia của con người.
Các nhà sản xuất ô tô lớn đang đầu tư mạnh vào công nghệ tự lái và xe tự lái, điều đó có thể thay đổi bộ mặt của các thành phố của chúng ta trong tương lai. Chúng có khả năng sẽ làm giảm ô nhiễm, cải thiện đáng kể việc đi lại hàng ngày và hơn thế nữa.
8. Mạng 5G và kết nối vệ tinh
5G là mạng thông tin di động thế hệ thứ 5 kết hợp với sự đổi mới sáng tạo trong công nghệ mạng sẽ cho chúng ta một mạng di động nhanh hơn và ổn định hơn, cũng như khả năng kết nối nhiều thiết bị hơn và cho phép truyền tải luồng dữ liệu lớn hơn.
Công nghệ mạng là xương sống của xã hội trực tuyến và nhờ đó nó tạo ra một thế giới thông minh hơn. Khi băng thông và vùng phủ sóng tăng lên, việc gửi, nhận nhiều email trở nên khả thi hơn, các dịch vụ dựa trên vị trí và phát trực tuyến video và trò chơi sẽ được cải thiện đáng kể. Mạng 5G sẽ cung cấp cho chúng ta không chỉ tốc độ truyền tải dữ liệu cao hơn mà còn có thể cho phép kết nối nhiều thiết bị hơn trong một khu vực địa lý.
9. Hệ gen và Chỉnh sửa gen
Hệ gen (Genomics) là một lĩnh vực sinh học liên ngành tập trung nghiên cứu về tất cả các gen và bộ gen của các sinh vật sống. Chỉnh sửa gen là một nhóm các công nghệ cho phép tạo ra các thay đổi trên trình tự gen nội sinh và cấu trúc di truyền của các sinh vật sống.
Các máy tính ngày càng mạnh mẽ và các công cụ phần mềm tinh vi hiện có là công cụ giúp chúng ta hiểu bộ gen của con người kể từ khi nó được sắp xếp theo trình tự chính xác lần đầu tiên vào năm 2003. Ngày nay, công nghệ sinh học đã phát triển đến mức có thể thay đổi phân tử DNA được mã hóa trong một tế bào và ảnh hưởng đến các đặc điểm mà hậu duệ của nó sẽ có sau khi nó sinh sản bằng cách phân chia tế bào.
10. Điện toán lượng tử
Điện toán lượng tử là một trong các phương pháp xử lý thông tin tiến bộ trong tương lai. Theo đó người ta sẽ sử dụng những nguyên lý của cơ học lượng tử để thực hiện các phép tính phức tạp trong một khoảng thời gian ngắn do nhiều siêu máy tính nhanh nhất trên thế giới thực hiện.
Điện toán lượng tử sẽ định nghĩa lại hoàn toàn máy tính là gì và có thể cho chúng ta sức mạnh tính toán mạnh gấp hàng triệu hoặc hàng nghìn tỷ lần so với siêu máy tính ngày nay. Mặc dù điện toán nhị phân thông thường có thể là tất cả những gì chúng ta sẽ cần cho nhiều nhiệm vụ chúng ta thực hiện trên máy tính trong tương lai gần. Trong khi đó, điện toán lượng tử có thể giúp cho chúng ta xử lý nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo và giải mã các cấu trúc phức tạp như thông tin về bộ gen.
Báo cáo “Lợi ích số” của Ngân hàng Thế giới cũng phân loại 132 quốc gia (các quốc gia này có số liệu để tính toán) theo ba nhóm là: (i) mới bắt đầu (emerging); (ii) chuyển tiếp (transitioning); (iii) tăng tốc (transforming) dựa theo điểm số mà mỗi quốc gia nhận được theo hai trụ cột là mức độ ứng dụng công nghệ số (trục hoành của Hình 3) và các yếu tố bổ trợ (trục tung của Hình 3). Trong báo cáo này, các yếu tố quyết định có 3 cấu phần là các yếu tố nền tảng liên quan đến: (i) khu vực doanh nghiệp, (ii) Chính phủ và (iii) người dân, tương ứng đại diện cho 3 trụ cột của chuyển đổi số là kinh tế số, chính phủ số và xã hội số. Đối với nhóm mới bắt đầu thì chuyển đổi số chủ yếu diễn ra ở cấp độ số hóa thông tin (cấp độ 1), và mới bắt đầu số hóa quy trình (cấp độ 2, như được định nghĩa ở phần trên). Các quốc gia thuộc nhóm chuyển tiếp đạt được mức độ khá cao của số hóa thông tin, đồng thời đang đẩy nhanh số hóa quy trình. Các quốc gia thuộc nhóm tăng tốc phổ cập việc số hóa thông tin, có mức độ số hóa quy trình cao, đồng thời đang đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số ở cấp độ 3.
Theo phân loại này, Việt Nam đang ở giai đoạn chuyển tiếp, xếp thứ 89/132 cả về mức độ ứng dụng công nghệ số cũng như các yếu tố nền tảng bổ trợ làm chất xúc tác thúc đẩy quá trình chuyển đổi số.
Cẩm nang chuyển đổi số của Bộ Thông tin và Truyền thông thông đưa ra nội hàm của ba trụ cột này như sau:
Chính phủ số: Có ba mức độ phát triển. Đầu tiên là chính phủ điện tử. Ở mức độ phát triển này, chính phủ tập trung vào việc số hóa các nguồn tài nguyên, ứng dụng công nghệ thông tin, tin học hóa quy trình nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, cung cấp dịch vụ hành chính công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp. Phát triển cao hơn là chính phủ số. Ở mức độ phát triển này, chính phủ hoạt động, vận hành, ban hành chính sách, đưa ra quyết định chỉ đạo điều hành và cung cấp các dịch vụ số một cách chủ động theo nhu cầu của người dân, doanh nghiệp một cách tối ưu dựa trên năng lực khai thác và phân tích dữ liệu, lấy dữ liệu là trung tâm. Để tiến tới mức độ phát triển này, cơ quan nhà nước các cấp từng bước cung cấp dữ liệu mở và mở dữ liệu. Hoạt động này cũng thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số.
Cao nhất là chính phủ thông minh. Ở mức độ phát triển này, chính phủ kiến tạo sự phát triển bền vững, cung cấp các dịch vụ đổi mới, sáng tạo, có tính dự báo trước cho người dân và doanh nghiệp dựa trên các công nghệ số và mô hình cung cấp dịch vụ mới, được tối ưu hóa.
Kinh tế số: Kinh tế số gồm ngành công nghiệp ICT, ngành công nghiệp viễn thông, ngành bán hàng hóa dựa trên các nền tảng ICT mà ta vẫn gọi là thương mại điện tử, ngành bán dịch vụ dựa trên các nền tảng ICT mà ta vẫn gọi là kinh doanh số như dịch vụ đặt phương tiện giao thông, dịch vụ đặt nhà hàng, khách sạn.
Xã hội số: Xã hội số, xét theo nghĩa rộng, là bao trùm lên mọi hoạt động của con người. Động lực chính của xã hội số là công nghệ số, dựa trên sự tăng trưởng thông tin, dữ liệu một cách nhanh chóng, làm thay đổi mọi khía cạnh của tổ chức xã hội, từ chính phủ, kinh tế cho tới người dân.
Xã hội số, xét theo nghĩa hẹp, gồm công dân số và văn hóa số. Chín yếu tố cấu thành công dân số là khả năng truy cập các nguồn thông tin số, khả năng giao tiếp trong môi trường số, kỹ năng số cơ bản, mua bán hàng hóa trên mạng, chuẩn mực đạo đức trong môi trường số, bảo vệ thể chất và tâm lý trước các ảnh hưởng từ môi trường số, quyền và trách nhiệm trong môi trường số, định danh và xác thực, dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong môi trường số. Vào năm 2025, đại đa số người dân trên thế giới sẽ trải qua một sự thay đổi to lớn chỉ trong vòng một thế hệ: Từ chỗ gần như không tiếp cận được thông tin đến chỗ có thể truy cập tất cả thông tin trên thế giới thông qua điện thoại di động thông minh.
Về văn hóa số, do xã hội số mới chỉ đang hình thành trong vài chục năm trở lại đây nên văn hóa số cũng mới chỉ đang hình thành, đó là các quy tắc ứng xử, chuẩn mực đạo đức của con người trong môi trường số.
Những nội dung xung quanh xu hướng của Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã được thảo luận rộng rãi từ giữa 2016. Tháng 5-2017, Chính phủ ra Chỉ thị 16 “Về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” với 6 nhóm giải pháp về hạ tầng, môi trường kinh doanh và chính phủ số; chiến lược và chương trình hành động; đổi mới sáng tạo; nguồn nhân lực; và nhận thức. Đến tháng 9-2019, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 52 “Về một số chủ chương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Đáng chú ý, cả Chỉ thị số 16 và Nghị quyết số 52 đều nhấn mạnh vấn đề tư duy, nhận thức về Công nghiệp 4.0 từ cấp trung ương đến địa phương, ban, ngành, cho đến doanh nghiệp và người dân cần phải được giải quyết đầu tiên. Tiếp đó, ngày 3-6-2020, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
Chương trình chuyển đổi số quốc gia hướng đến xây dựng một chính phủ số, nền kinh tế số và một xã hội số
Chuyển đổi số theo các trụ cột
Trong giai đoạn đầu, 8 lĩnh vực ưu tiên cho chuyển đổi số gồm: y tế, giáo dục và đào tạo, tài chính - ngân hàng, nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng, tài nguyên và môi trường, giao thông vận tải và logistics.
Hiện nay, nhiều lĩnh vực thuộc kinh tế số của Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ. Đồng thời, Việt Nam cũng thúc đẩy chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số.
Chuyển đổi số ở cấp địa phương còn rất nhiều dư địa tiềm năng to lớn. Các mảng có thể thúc đẩy chuyển đổi số có thể liệt kê bao gồm:
Chính Phủ số cấp xã
Chính phủ số cấp huyện và tỉnh
Tuyển dụng và đào tạo liên tục công chức, viên chức
Quản lý công trình xây dựng
Quản lý nông nghiệp, chăn nuôi, rủi ro y tế
Nông dân số
Kinh doanh du lịch bản địa trên nền tảng số
Đào tạo nghề, đào tạo nâng cao năng lực trên Mobile App
Kết nối người dân - doanh nghiệp - chính quyền
Trong khi nhiều nước vẫn còn bàn thảo về chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, thì người dân, doanh nghiệp (DN) Singapore đang tận hưởng thành quả ngọt ngào của công cuộc chuyển đổi số mang lại. Hành trình chuyển đổi số của Singapore khởi đầu với việc số hóa, xây dựng cơ sở dữ liệu trên hệ thống máy tính ở thập kỷ 1990. Đến năm 2000, 90% dịch vụ công được cung cấp trực tuyến. Năm 2010, Singapore đã cung cấp dịch vụ công tích hợp, xoá bỏ tình trạng các cơ quan hoạt động cục bộ, riêng lẻ. Mốc đột phá là vào tháng 11/2014 khi Thủ tướng Lý Hiển Long khởi động sáng kiến xây dựng quốc gia thông minh trong 10 năm với 3 trụ cột chính là kinh tế số, chính phủ số và xã hội số. Một điểm mốc khác là vào tháng 5/2017, Singapore thành lập Văn phòng Chính phủ số và Quốc gia thông minh, tạo nên sự thống nhất, đồng bộ và thông suốt trong chỉ đạo, vận hành và do vậy, đẩy nhanh hành trình chuyển đổi số. Đến hiện tại, Singapore chuyển đổi số triệt để với trọng tâm là người dân, theo đó, dựa trên khảo sát, Chính phủ đã xây dựng 11 hành trình dịch vụ liên quan đến cuộc sống của người dân như Làm cha mẹ từ lúc trẻ sinh ra đến học phổ thông; Người lao động tìm kiếm công việc; Chăm sóc sức khỏe; Người cao tuổi;… Tất cả những dịch vụ liên quan đến các hành trình này đều được thực hiện một cửa duy nhất. Qua đó, giúp người dân tiết kiệm chi phí, thời gian và công sức; đồng thời thay đổi được nhận thức, thói quen và cách làm việc của cán bộ nhân viên.
Chính phủ Singapore dẫn dắt và giữ vai trò then chốt trong công cuộc chuyển đổi số để mang lại cuộc sống tốt đẹp, tiện ích cho người dân, xây dựng đất nước thành nơi đáng sống, nơi làm việc và giải trí tuyệt vời. Người dân tham gia hầu hết các khâu làm nên sản phẩm và dịch vụ số với quy trình 5 bước chặt chẽ: Khảo sát và lấy ý kiến người dân; thử nghiệm từ việc sử dụng của người dân; đánh giá khiếm khuyết; thiết kế lại và hoàn thiện việc số hóa dịch vụ.
Điển hình như ứng dụng " Cuộc sống Singapore" (LifeSG) đã nhận được sự quan tâm và tham gia nhiệt thành của đông đảo người dân. Dịch vụ số này tích hợp hơn 40 dịch vụ tiện ích như đăng ký giấy khai sinh, trợ cấp trẻ em, tìm trường học tối ưu, thông tin về các chương trình, các ưu tiên dành cho người cao tuổi, về việc làm, các khóa học phát triển kỹ năng, cập nhật các chương trình phúc lợi mới nhất của Chính phủ...
Không đơn thuần dừng ở việc tạo môi trường thuận lợi hay để mặc DN trôi nổi, Singapore lập 23 bản đồ chuyển đổi số chỉ đường cho 23 ngành gồm cả lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, bao phủ hầu hết các ngành chính, chiếm 80% GDP quốc gia.
Nhằm tạo tiếng nói và nhận thức chung trong cộng đồng sản xuất về cơ hội và thách thức của cuộc CMCN 4.0, Singapore xây dựng Chỉ số sẵn sàng công nghiệp thông minh (Smart Industry Readiness Index). Đây là công cụ để các DN tự đánh giá về hoạt động sản xuất và mức độ sẵn sàng của mình. Chỉ số gồm khung tham chiếu và các công cụ giúp các nhà sản xuất bất kể lớn nhỏ và ngành công nghiệp biết cách khởi đầu, xác định quy mô và duy trì hành trình chuyển đổi sản xuất của mình thế nào cho phù hợp. DN sử dụng Chỉ số để thiết kế lộ trình cải tiến, đưa ra giải pháp, để đánh giá và sàng lọc các sáng kiến, đánh giá mức độ tiến triển…
Dự án SME Go Digital, dự án SME Digital Tech Hub giúp các DN vừa và nhỏ ứng dụng công nghệ số trong tiếp cận thị trường mới, nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động. Dự án Start Digital hỗ trợ DN vừa và nhỏ đào tạo nhân lực về tiếp thị kỹ thuật số, thanh toán điện tử, an ninh mạng trong vòng 18 tháng. DN được miễn học phí trong 6 tháng đầu và giảm học phí thời gian còn lại.
Singapore cũng bố trí các chuyên gia giàu kinh nghiệm tư vấn miễn phí từ A đến Z cho các DN vừa và nhỏ thực hiện chuyển đổi số. Singapore còn xây dựng các nền tảng số để tiếp nhận, xử lý, trả kết quả hồ sơ cho DN, để DN tiếp cận thông tin về đất đai, quy hoạch một cách công khai, chi tiết và hoàn toàn miễn phí.
Singapore đã dành hơn 500 triệu SGD để hỗ trợ các DN và người dân đẩy nhanh chuyển đổi số nhằm giảm thiểu tác động cuộc khủng hoảng này. Kết quả là, theo báo cáo của Microsoft, có tới 73% DN cả quy mô vừa và lớn đã đẩy nhanh tốc độ số hóa theo nhiều cách khác nhau để ứng phó với đại dịch, từ việc đưa ra các sản phẩm kỹ thuật số, thanh toán kỹ thuật số đến thương mại điện tử và tự động hóa.
Singapore được đánh giá là một trong những nước kiểm soát dịch Covid-19 tốt nhất thế giới. Cũng bởi vậy, Diễn đàn kinh tế thế giới chọn Singapore thay vì Thụy Sĩ tổ chức hội nghị thường niên năm 2021.
Singapore không chỉ hoạch định chính sách kỹ lưỡng mà còn coi “thực thi là tối quan trọng”, đảm bảo đầy đủ các định chế hỗ trợ việc thực thi chính sách hiệu quả, đặc biệt chú trọng tuyển chọn các chuyên gia công nghệ tầm cỡ giàu kinh nghiệm có tầm nhìn chiến lược làm đầu tàu trong hành trình chuyển đổi số. Đây là yếu tố quan trọng mang lại thành công của Singapore trong công cuộc chuyển đổi số. Singapore đặt ra các lộ trình chính mỗi năm, tập trung vào các lĩnh vực cụ thể để cải tiến và số hóa. Hành trình chuyển đổi số được thực hiện theo từng bước với lộ trình rõ ràng để người dân và DN có thời gian làm quen và dần thích ứng. Các sản phẩm và dịch vụ số liên tục được cải tiến để hoàn thiện hơn. Khi phát sinh vướng mắc giữa Chính phủ và người dân, kể cả những vấn đề nhỏ nhất trong “hành trình dịch vụ” số hóa phải được giải quyết luôn và ngay.
Chính phủ Singapore đã đi đầu trong việc xây dựng và vạch ra các kế hoạch của chiến dịch chuyển đổi số trong đó trọng tâm là các trụ cột về kinh tế, chính phủ và xã hội thông qua Khung hành động về kinh tế số; Kế hoạch chi tiết về chính phủ số; và Kế hoạch chi tiết về sự sẵn sàng của công nghệ số.
Khi nói đến chuyển đổi kỹ thuật số và quản trị điện tử, Estonia là một ví dụ mà nhiều quốc gia hướng tới. Hầu như tất cả mọi thứ và mọi công dân ở Estonia đều được kết nối với Internet: trong năm 2017, 91,4% dân số sử dụng Internet; 87,9% hộ gia đình có máy vi tính; 86,7% dân cư có quyền truy cập băng thông rộng. Cuộc khảo sát gần đây về chính phủ điện tử của Liên hợp quốc đã xếp hạng Estonia trong số 3 quốc gia kỹ thuật số tiên tiến nhất từ 193 quốc gia thành viên cho năm 2020. Estonia là một điển hình thành công về một xã hội kỹ thuật số và là quốc gia mà Chính phủ điện tử được người dân sử dụng nhiều nhất trên thế giới. Bên cạnh đó, Estonia cũng là một nhà sáng tạo và tạo ra sự thay đổi cho hoạt động bỏ phiếu trực tuyến và nhận dạng kỹ thuật số. Estonia cũng là quốc gia có tỷ lệ bỏ phiếu bầu cử nghị viện trực tuyến có tỷ lệ cao, hơn 40 % dân số bỏ phiếu điện tử (năm 2019).
Estonia bắt đầu hành trình số hóa vào cuối những năm 1990, thời điểm mà Internet mới chỉ trở thành xu hướng chủ đạo. Vào thời điểm này, Estonia gần như chưa có một dịch vụ hoặc hạ tầng số nào để hỗ trợ cho chính phủ của họ. Các sáng kiến đầu tiên tập trung vào hiệu quả của chính phủ và kết quả mà các dịch vụ kỹ thuật số có thể mang lại. Năm 1994, bản thảo đầu tiên về “Nguyên tắc chính sách thông tin Estonia” được đưa ra trong đó đề cương chiến lược phát triển công nghệ thông tin được Quốc hội phê chuẩn 4 năm sau đó, đây là thời kì cần thiết sử dụng công nghệ thông tin để giải quyết những thách thức mà xã hội phải đối mặt. Năm 1996 đưa ra sáng kiến “Tiger leap” (“Bước nhảy của hổ”) – sáng kiến phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin trên toàn quốc và kết quả là 90% dân số sử dụng Internet thường xuyên. Năm 2000, Chính phủ Estonia chuyển các cuộc họp nội các sang hình thức họp điện tử (e-cabinet meeting) đã làm giảm giờ họp nội các từ 4-5 tiếng xuống còn 30 phút và mục tiêu đưa các giải pháp điện tử trở thành một phần của quá trình ra quyết định của Chính phủ. Hơn nữa, quốc gia này đã tuyên bố Internet là quyền con người vào năm 2001.
Kết quả của cam kết là nội các Estonia hoàn toàn không tốn nhiều giấy mực, thể hiện một trong những mô hình quản trị kỹ thuật số tiên tiến nhất trên toàn thế giới. Vào năm 2014, Chính phủ Estonia đã công bố một công ty khởi nghiệp trực thuộc chính phủ cung cấp quyền tiếp cận cho các nhà đầu tư trên toàn thế giới để tiếp cận một môi trường kinh doanh kỹ thuật số minh bạch và linh hoạt. Cư trú điện tử (E-Residence) đã gợi ý một cách mang tính cách mạng cho các doanh nhân để điều hành công ty của họ từ mọi nơi, hoàn toàn trực tuyến. Estonia cũng là quốc gia có công dân điện tử, tăng nhanh về số lượng qua các năm từ 7.348 người năm 2015 lên 83.248 công dân điện tử năm 2021 (tăng hơn 11 lần sau 6 năm) (Hình 7). Có thể thấy, chương trình đã tạo ra những lợi ích kinh tế đáng kể cho đất nước và ước tính thu được khoảng hơn 1 tỷ đồng Euro.
Estonia cũng trở nên nổi tiếng với các quy định tự do trong lĩnh vực nghiên cứu công nghệ. Việc kiểm tra ô tô không người lái ở Cấp độ 3 là hợp pháp trên tất cả các con đường của Estonia và quốc gia này có mục đích sớm mở rộng lên cấp độ 5. Theo phó thư ký phát triển kinh tế của Estonia “Dù sao thì họ cũng tin rằng đổi mới sẽ xảy ra và nếu họ cố gắng hướng tới nó, đổi mới có thể xảy ra ở một nơi khác”.
Estonia cũng tuân thủ nguyên tắc "once only", tức là không có bất kỳ thông tin nào phải nhập quá 2 lần. Thậm chí ở đây, bạn không cần điền vào tờ khai bệnh tại phòng khám bởi mọi thứ đã được lưu vào thẻ ID (99% công dân Estonia có thẻ ID điện tử, 19% dân số sử dụng thẻ ID di động và 44% sử dụng thẻ ID thông minh), kể cả hồ sơ bệnh án. Mô hình này giúp giảm bớt thủ tục rườm rà, biến các công việc rắc rối như khai thuế trở nên nhanh gọn hơn.
Để phục vụ các dịch vụ công và xử lý thông tin của chính phủ, Estonia vận dụng một nền tảng công nghệ mang tên X-Road, một nền tảng trao đổi dữ liệu mã nguồn mở cho phép truyền dữ liệu giữa các hệ thống thông qua những kết nối được mã hóa. Thay vì lưu dữ liệu ở cùng một nơi, chúng được phân ra tách biệt. Thuộc sở hữu của chính phủ Estonia song X-Road lại được nhiều công ty lớn sử dụng. Và ấn tượng là Phần Lan, láng giềng của Estonia, năm 2017 cũng đã bắt đầu ứng dụng X-Road. Số lượt truy vấn qua X-Road tăng nhanh qua các năm, từ hơn 60 nghìn lượt truy cập năm 2003 tăng lên con số hơn 250 triệu lượt truy cập năm 2021 (tăng hơn 4.200 lần sau 18 năm). Các con số này cho thấy rằng việc vận hành và hiệu quả xử lí trên X-Road của Chính phủ Estonia rất hiệu quả và được tin dùng.
Estonia có thể được coi là quốc gia duy nhất mà 99% dịch vụ công luôn có sẵn trực tuyến bất cứ lúc nào, ngoại trừ các giao dịch kết hôn, ly hôn và bất động sản. Quốc gia có toàn quyền truy cập vào hơn 3000 dịch vụ công được chuyển đổi thành các giải pháp điện tử linh hoạt. Nhờ có một hệ sinh thái kỹ thuật số được sắp xếp tốt như vậy, đất nước này đã đạt đến mức độ minh bạch và tin cậy của chính phủ vô song.
Con đường dẫn tới thành công của Estionia trong chuyển đổi số
Tầm nhìn và tư duy đổi mới của lãnh đạo đất nước trong nhận thức được tầm quan trọng của chuyển dổi số và sớm nhận thấy các giải pháp để bắt kịp các quốc gia khác. Sự tập trung sớm của Estiona vào việc tích hợp giáo dục công nghệ thông tin với giáo dục phổ thông là một yếu tố cần thiết trong việc cho phép chuyển đổi kỹ thuật số. Thủ tướng Mart Laar đã nói: “Chúng tôi chọn CNTT vì nó không yêu cầu nhiều tiền, đầu tư duy nhất chúng tôi cần là giáo dục tốt, điều rất ăn khớp với văn hoá của chúng tôi. Vì chúng tôi không thể làm mọi thứ ngay một lúc, chúng tôi hội tụ chỉ vào một điều: giáo dục công nghệ”. Chương trình Tiger Leap được khởi xướng năm 1996 với bước đầu tiên là tin học hoá các trường học – đây là một chương trình hợp tác công-tư. Mục tiêu chính của chương trình Tiger Leap là kết nối tất cả các trường học bằng Internet, trang bị máy tính cho các trường học và bắt đầu sử dụng CNTT vào quá trình dạy và học. Mặc dù chương trình nhấn mạnh vào việc giáo dục, nhưng tác động của nó lớn hơn dự kiến ban đầu và cuối cùng đã thúc đẩy mạnh mẽ cho sự phát triển của xã hội thông tin của Estonia. Đến năm 1998, tất cả các trường học tại quốc gia này đều được trang bị máy tính có kết nối mạng. Các trường đều có phòng máy tính, mở sau giờ học để khuyến khích mọi người đến, sử dụng. Chương trình này đã có tác động to lớn đến thanh niên Estonia và dẫn đến sự xuất hiện của một khu vực khởi nghiệp CNTT sôi động. Tiger Leap Plus (2001 – 2005), một phần tiếp theo của chương trình Tiger Leap, được Chính phủ Estonia triển khai. Mục tiêu của chương trình là ứng dụng CNTT để tạo điều kiện một xã hội học tập trong các trường học và máy tính được sử dụng như một nhu cầu tất yếu của quá trình dạy và học tập. Có bốn lĩnh vực ưu tiên: (1) Phát triển năng lực CNTT cho sinh viên tốt nghiệp, giáo viên và quản trị viên. (2) Học ảo (phát triển phần mềm học tập, phát triển phòng tập ảo,… ). (3) Phát triển cơ sở hạ tầng CNTT (hiện đại hóa phần mềm và phần cứng, kết nối internet, hỗ trợ kỹ thuật cho trường học). (4) Thúc đẩy sự hợp tác của tất cả các bên liên quan (nhà nước, cộng đồng địa phương, trường học, phụ huynh và tổ chức khác). Phổ biến CNTT cho toàn cộng đồng là bước nền tảng để thực hiện số hóa quản trị nhà nước. Kết quả là, với kỹ năng mạnh trong CNTT, người E-xtô-ni-a có khả năng thực hiện hệ thống chính phủ điện tử hiệu quả, nơi mọi thứ đều được trực tuyến để loại bỏ việc xếp hàng dài trước các văn phòng chính phủ. Nguồn nhân lực CNTT có kỹ năng cũng phát triển các doanh nghiệp điện tử với các cửa hàng trực tuyến để thay thế cho các cửa hàng vật lý truyền thống.
Thứ hai là ý chí chính trị của lãnh đạo, dám làm, dám chấp nhận rủi ro. Có tư duy và tầm nhìn, dám làm dám chấp nhận rủi ro là yếu tố dẫn đến thành công của lãnh đạo Estonia qua các thời kì. Thủ tướng Toomas Hendrik Ilves đã chia sẻ “Không có gì là dễ dàng. Cá nhân tôi đã bị công kích vì CĐS trong gần 10 năm liên tục, bắt đầu từ việc thúc đẩy tin học hóa các trường học cho đến việc số hóa toàn bộ quy trình quản trị”. Việc đưa máy tính vào trường học những năm 1996 đã vấp phải sự phản đối của Liên đoàn giáo viên, họ cho rằng chúng sẽ huỷ hoại nền giáo dục. Tuy nhiên, dù vấp phải nhiều ý kiến phản đổi nhưng nhờ quyết tâm của các nhà hoạch định, Chính phủ Estonia vẫn kiên định với chính sách này. Các nhà hoạch định chính sách Estonia không sợ bị cử tri phàn nàn, họ dám thử nghiệm những điều mới mẻ và chấp nhận rủi ro, kiên định thực hiện mục tiêu chuyển đổi số.
Thứ ba, chính sách hợp tác công – tư nhanh nhạy, sáng suốt, thu hút sự tham gia của khu vực tư và chính quyền địa phương vào quá trình chuyển đổi số. Khi thực hiện chiến lược số hóa nền kinh tế và quản trị, chính phủ Estonia đã đưa các quyết sách nhanh chóng, kịp thời, không có lo sợ sự thiếu hụt nguồn lực hay cơ sở hạ tầng. Sự thiếu hụt sẽ được bổ sung từ khu vực tư hoặc từ chính quyền địa phương với chính sách hợp lý. Nhận thấy nguồn lực đầu tư công là không đủ, Chính phủ Estonia đưa ra những chương trình ưu đãi, khuyến khích nhà đầu tư tham gia xây dựng “ngân hàng điẹn tử”, xây dựng những trung tâm máy tính thư viện thành phố hoặc các cơ quan chính quyền để người dân có thể sử dụng rộng rãi. Các quan hệ đối tác công tư đã khởi xướng các khoản đầu tư đáng kể vào CNTT và dịch vụ kỹ thuật số như liên doanh với các công ty nhà nước ở Scandinavia và sau đó chủ yếu là ngành ngân hàng. Với sự gia tăng của ngân hàng điện tử vào cuối những năm 1990, các ngân hàng đã đi đầu trong việc triển khai e-ID quốc gia (ban đầu là ngân hàng phát hành e-ID). Về bản chất, các ngân hàng đã đảm nhận nhiệm vụ đào tạo cho những công dân để thực hiện các giao dịch trực tuyến. Chính phủ cũng triển khai chính sách sử dụng cơ chế tài trợ đối ứng 50 – 50, trong đó, chính quyền địa phương nào sẵn sàng chi trả một nửa giá máy vi tính sẽ được trung ương trả cho 50% còn lại. Kết quả là năm 1998, tất cả các trường học ở Estonia đều có phòng máy vi tính được nối mạng.
Thứ tư là xây dựng niềm tin của người dân vào Chính phủ số. Một trong những yếu tố chính cho sự thành công của Estonia trong việc chuyển đổi số để trở thành chính phủ điện tử hàng đầu như hiện nay nằm ở niềm tin của người dân vào chính phủ. Chính phủ Estonia đã xây dựng lòng tin từ phía người dân bằng những bước đi nhỏ nhưng mang tính quyết định trong gần 30 năm qua. Vấn đề đầu tiên và quan trọng nhất để bảo đảm lòng tin là sự minh bạch. Chính phủ tin rằng, cần bảo đảm an toàn cho công dân trong xã hội số và đã thực hiện nhiều biện pháp, như: thực hiện các giải pháp kỹ thuật để bảo vệ và bảo mật tất cả dữ liệu của công dân; cơ sở pháp lý phải được điều chỉnh để bảo đảm quyền thực thi của đất nước trong bảo vệ dữ liệu. Mọi cư dân của Estonia đều được cấp một định danh số duy nhất, an toàn để truy cập vào tất cả dịch vụ của chính phủ, như: hồ sơ sức khỏe, đăng ký ô tô, thuế, hồ sơ tài sản… Người dân Estonia luôn được biết rằng mọi việc truy cập, can thiệp vào cơ sở dữ liệu công sẽ được ghi lại và đánh dấu thời gian dựa trên blockchain, và nếu có cá nhân/tổ chức khác truy cập, can thiệp vào các cơ sở dữ liệu đó thì đó là hành vi phạm tội hình sự. Điều này tạo niềm tin giữa công dân, nhà nước và dịch vụ điện tử. Điều thậm chí còn quan trọng hơn là dữ liệu công dân Estonia không thuộc về nhà nước Estonia. Việc dữ liệu cá nhân có trong cơ sở dữ liệu chung không có nghĩa là nhà nước Estonia sở hữu nó, mà nó thuộc về công dân. Bất cứ lúc nào, công dân có quyền biết và kiểm soát những gì xảy ra với dữ liệu này. Điều này làm cho xã hội kỹ thuật số minh bạch hơn nhiều so với xã hội bên ngoài.
Trái: Tỷ lệ người dân Estonia tham gia bầu cử trực tuyến
Phải: Dịch vụ công trực tuyến tại Estonia (Nguồn: https://e-estonia.com )
Vương quốc Anh được Liên Hợp Quốc công nhận là một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới về chính phủ số. Từ các dịch vụ y tế được cá nhân hóa và chăm sóc người cao tuổi tại nhà, đến việc đào tạo, tiếp cận văn hóa, các công cụ, kỹ thuật, công nghệ và phương pháp tiếp cận của thời đại Internet mang lại cho chúng ta cơ hội lớn hơn bao giờ hết để cải thiện dịch vụ.
Tại Vương quốc Anh, việc cải thiện trải nghiệm cho người dân và doanh nghiệp khi sử dụng các dịch vụ công (DVC) trực tuyến của chính phủ và ứng dụng các công cụ số khác cho công việc hàng ngày luôn được chính phủ chú trọng.
Mục tiêu là nhằm nâng cao năng lực của chính phủ để không chỉ thiết kế, phát triển và vận hành các DVC số hiện đại mà còn dịch chuyển cơ sở hạ tầng cũ của chính phủ. Thông qua đó, chính phủ trở thành một tổ chức số đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dùng. Chiến lược chuyển đổi thành chính phủ số của Chính phủ Anh được công bố vào ngày 9/2/2017 đã cho thấy cách tiếp cận của Vương quốc Anh để thực hiện mục tiêu này.
Chính phủ Vương quốc Anh có những ưu tiên cho việc chuyển đổi số các công việc của chính phủ hướng tới người dân: thiết kế và cung cấp các dịch vụ kết hợp, từ đầu đến cuối; thực hiện các chương trình chuyển đổi lớn; thiết lập cách tiếp cận chính phủ toàn diện để chuyển đổi, tạo nền tảng cho sự chuyển đổi rộng rãi hơn trong khu vực công.
Các sở, ban ngành và cơ quan liên tục cải thiện trải nghiệm người dùng đối với các dịch vụ của chính phủ bằng cách xây dựng các dịch vụ số đáp ứng các tiêu chuẩn dịch vụ số (Digital Service Standard). Để thực hiện, Cơ quan dịch vụ số của Chính phủ (GDS) đã đặt ra 3 nhiệm vụ trọng tâm:
● Đầu tiên, GDS đẩy nhanh tốc độ và quy mô chuyển đổi số bằng cách tránh phát triển trùng lặp các giải pháp, xây dựng các quy trình công việc số mới và tập trung vào những thách thức cụ thể của quá trình chuyển đổi. GDS thực hiện việc này theo cách an toàn, với việc nghiên cứu kỹ lưỡng quyền riêng tư và bảo mật trong suốt quá trình thiết kế và triển khai mọi thành phần, nền tảng.
● Thứ hai, chính phủ số được xây dựng dựa trên khái niệm Nền tảng của Chính phủ (Government as a Service), đảm bảo Vương Quốc Anh sử dụng nhiều hơn các nền tảng và thành phần trong toàn bộ chính phủ. GDS cũng tiếp tục hướng tới công nghệ chung, đảm bảo sử dụng phần cứng hoặc phần mềm dựa trên đám mây thay vì xây dựng một thứ gì đó không cụ thể. Các thành phần và nền tảng chung sẽ bao gồm cả các dịch vụ hướng tới người dân và công nghệ nội bộ của khu vực công.
● Và thứ ba, GDS hướng tới việc có một loạt các thành phần có thể tái sử dụng để tạo ra các dịch vụ số nhanh chóng, chi phí hợp lý và dễ triển khai. Đây sẽ là một sự kết hợp các thành phần do chính phủ xây dựng, cả từ các ban ngành và GDS, và các thành phần chung mà chính phủ có thể mua dựa trên các tiêu chuẩn mở.
Với tham vọng có nhiều công chức có kỹ năng số trình độ cao nhất thế giới, GDS đã liên tục thuê các chuyên gia để phát triển các công việc về số, dữ liệu và công nghệ ((digital, data and technology - DDaT) trong chính phủ, bao gồm phát triển các đường hướng nhiệm vụ nhất quán và có các cơ cấu khen thưởng; tạo cơ hội học tập và phát triển tốt nhất có thể cho các chuyên gia DDaT thông qua nền tảng Học viện số (Digital Academy); xây dựng năng lực khoa học dữ liệu của chính phủ thông qua Chương trình đào tạo cơ sở khoa học dữ liệu; đưa chính phủ đi đầu trong việc thu hút lực lượng lao động đa dạng cho các vị trí việc làm kỹ thuật số, dữ liệu và công nghệ; đưa chính phủ đi đầu trong việc thu hút lực lượng lao động đa dạng cho các vị trí công tác phụ trách số, dữ liệu và công nghệ.
GDS cũng hợp tác với các doanh nghiệp, học viện và khu vực xã hội để thúc đẩy đổi mới kỹ thuật số trong chính phủ. Để làm được điều này, GDS thiết lập Quan hệ đối tác chính phủ số mới nhằm tăng cường hợp tác với các đối tác bên ngoài, bao gồm cả việc mời các chuyên gia bên ngoài vào chính phủ với tư cách là nghiên cứu về công nghệ để giúp các nhà hoạch định chính sách: tư duy về cách chính phủ nên phản ứng với bối cảnh số đang phát triển nhanh chóng; tạo ra phân tích và ý tưởng để thông báo chính sách hiện tại; thử nghiệm các công nghệ mới như sổ cái phân tán và học máy.
Một số sản phẩm thành công của Anh bao gồm:
Xác thực GOV.UK: là dịch vụ xác minh danh tính trực tuyến của chính phủ, hoạt động từ tháng 5/2016 và tiếp cận theo hướng thị trường, liên kết để đảm bảo danh tính cho cấp trung ương. Dịch vụ này có thể được sử dụng cho khu vực công và tư. Vương quốc Anh cho phép người dân chứng minh danh tính trực tuyến và truy cập các dịch vụ của chính phủ một cách bảo mật, an toàn. Dịch vụ bảo vệ khỏi nguy cơ gian lận danh tính trực tuyến ngày càng tăng. Vương quốc Anh đã hướng tới 25 triệu người có tài khoản GOV.UK Verify vào cuối năm 2020; tiếp tục một loạt các thử nghiệm cho chính quyền địa phương và các dịch vụ khu vực tư nhân để hiểu nhu cầu của người dùng và cơ sở thương mại, pháp lý để cho phép mọi người sử dụng tài khoản xác thực GOV của họ để tiếp cận các dịch vụ trong các lĩnh vực.
GOV.UK Pay: thực hiện khoản thanh toán đầu tiên vào ngày 2/9/2016. GOV.UK Pay giúp người dân, tổ chức dễ dàng thanh toán cho chính phủ trực tuyến một cách an toàn, giảm thời gian, sự phức tạp khi làm việc với chính phủ và giảm thiểu nhu cầu phải mua hoặc xây dựng hệ thống thanh toán nhiều lần. Sau đó, phạm vi thanh toán được mở rộng để công dân có thể thanh toán cho các dịch vụ bằng nhiều loại hình thanh toán (chẳng hạn như thẻ, Ghi nợ trực tiếp và ví điện tử).
GOV.UK Notify: Chính phủ nhận được hàng triệu cuộc gọi mỗi năm từ những người lo lắng muốn tìm hiểu tiến trình của một ứng dụng, hoặc để kiểm tra xem đã nhận được khoản thanh toán chưa. Để tránh việc gọi điện nhiều lần cho các cơ quan chính phủ và giảm số tiền mà chính phủ chi cho các trung tâm liên lạc, đồng thời thay đổi cách công dân giao tiếp với chính phủ, GOV.UK Notify đã gửi những tin nhắn đầu tiên vào ngày 18/7/2016, giúp dễ dàng cập nhật thông tin về các nhóm dịch vụ của chính phủ cho mọi người thông qua tin nhắn văn bản, email hoặc thư.
Vui lòng liên hệ email admin@phattriendiaphuong.vn để nhận thêm thông tin về chủ đề Chuyển Đổi Số.