Lãnh đạo hay năng lực lãnh đạo luôn được nhấn mạnh trong bất kỳ tổ chức nào. Và cũng đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu, thảo luận, đào tạo về chủ đề và kỹ năng này. Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những định nghĩa, thậm chí là “công thức” cho kỹ năng lãnh đạo. Kouzes and Posner (1995, 9–14) đúc rút ra Năm nguyên tắc cơ bản của kỹ năng lãnh đạo (Five Fundamentals of Exemplary Leadership), bao gồm:
Thách thức quy trình hiện hữu
Truyền cảm hứng về một tầm nhìn chung
Thúc đẩy mọi người hành động
Trở thành hình mẫu
Tạo động lực
Lãnh đạo trong lĩnh vực công có gì khác biệt?
“Lãnh đạo khu vực công là việc gây ảnh hưởng (là khả năng thu phục lòng người), là quá trình truyền cảm hứng, khơi dậy sự nhiệt tình, động lực của những cán bộ, công chức, viên chức trong khu vực công để họ làm việc một cách tốt nhất nhằm đạt được các mục tiêu của kế hoạch.
Lãnh đạo trong khu vực công đối mặt với những thách thức đặc thù. Lãnh đạo trong khu vực công phải ‘chèo lái’ để đạt được kết quả với nguồn lực hạn hẹp và yêu cầu từ xã hội ngày càng cao. Danh sách đó bao gồm:
các yêu cầu của công chúng về trách nhiệm giải trình
bùng nổ công nghệ
thay đổi tiêu chuẩn, luật và thủ tục
thời gian hạn hẹp
các chu kỳ bầu cử
thiếu nguồn lực
Nổi tiếng trong những cuốn sách về quản lý - lãnh đạo trên thế giới, “21 Nguyên Tắc Vàng Trong Nghệ Thuật Lãnh Đạo” của John C Maxwell được coi là kinh điển.
Nguyên tắc số 1: Luật giới hạn. Tài năng lãnh đạo xác định mức độ thành công.
Tải năng lãnh đạo tỷ lệ thuận với hiệu quả công việc của một người. Luật giới hạn cho chúng ta thấy giá trị của tài năng lãnh đạo. Tài năng lãnh đạo của một người cao thì hiệu quả công việc của người đó cao. Tài năng thấp thì hiệu quả cá nhân thấp. Không có ngoại lệ.
Hiệu quả công việc của một người có giới hạn chính là tài năng lãnh đạo của họ. Muốn tăng được hiệu quả công việc thì cần phát triển cả 2 yếu tố là tài năng lãnh đạo, những yếu tố đóng góp cho thành công.
Một điển hình ví dụ minh họa tầm quan trọng của tài năng lãnh đạo:
Ông Stephenson - giám đốc công ty Global Hospitality Resource, chuyên mua lại các khách sạn và khu nghỉ dưỡng kém hiệu quả. Theo ông, tài năng lãnh đạo quyết định hiệu quả công việc, chính vì không có tài năng lãnh đạo nên tình hình hoạt động mới kém như thế.
Trước khi bắt đầu cho vận hành lại, ông đào tạo toàn bộ nhân viên, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, và sa thải các lãnh đạo cũ.
Cách thực hiện của Don Stephenson có hơi cực đoan nhưng nó thể hiện rõ nguyên tắc số 1 của John C Maxwell : “Tài năng lãnh đạo quyết định hiệu quả công việc”.
Nguyên tắc số 2: Luật ảnh hưởng. Thước đo chính xác nhất của tài năng lãnh đạo chính là sự ảnh hưởng.
Không phải người quản lý nào cũng là người lãnh đạo. Chúng ta thường hay ngộ nhận về vị trí quản lý và người lãnh đạo. Chúng ta hay cho rằng nhà quản lý, doanh nhân, nhà khoa học, trí thức, người đứng đầu, người có chức vụ...đều là nhà lãnh đạo. Điều này chưa chắc đúng.
Thiếu mất yếu tổ ảnh hưởng, một người có chức danh lớn thế nào thì cũng không thể coi là nhà lãnh đạo. Bài học sâu sắc cho nguyên tắc này chính là Công nương Diana Frances Spencer.
Có thể nói, công nương được người dân nước Anh yêu mến không phải là do chức vị của mình mà nhờ sức hấp dẫn và sự ảnh hưởng. Người phụ nữ này thành công trong việc thuyết phục nhiều người tham gia vào các chương trình nghiên cứu bệnh AIDS, chăm sóc những người bị bệnh phong cùi, và chống việc rải bom mìn. Minh chứng cho tầm ảnh hưởng mạnh mẽ của bà, trong cuộc trưng cầu của tờ London Daily Mail năm 1996, danh hiệu “người đáng mến nhất thế giới” đã gọi tên công nương Diana, là sự công nhận cho những cống hiến không ngừng nghỉ của bà.
Nguyên tắc số 3: Luật tiến trình. Tài năng lãnh đạo phát triển hằng ngày, chứ không phải trong một ngày.
Tài năng lãnh đạo không thể phát triển trong một ngày mà là quá trình phát triển của cả cuộc đời. Khả năng phấn đấu, học tập bền bỉ để phát triển và nâng cao tài năng của mình là đặc trưng của những người lãnh đạo. Không phải ai sinh ra đã có tài năng lãnh đạo và không phải tài năng lãnh đạo không thể trau dồi. Sinh ra là một người ốm yếu, bị bệnh hen suyễn, thị lực yếu, rất gầy; có ai từng nghĩ Theodore Roosevelt sẽ trở thành tổng thống thứ 26 của Hoa Kỳ. Tài năng lãnh đạo của ông được chắt góp từng ngày nhờ quá trình phấn đấu không ngừng nghỉ. Khi đã trở thành tổng thống, quá trình phấn đấu này cũng không ngừng nghỉ.
Nguyên tắc số 4: Luật thuyền trưởng. Ai cũng có thể lái tàu, nhưng không phải ai cũng có thể là thuyền trưởng và vạch ra hành trình.
Lái tàu thì nhiều người làm được nhưng không phải ai cũng có thể vạch ra hành trình và lái con thuyền về đến đích. Việc khó hơn cả lái tàu chính là vạch ra một hành trình đúng để đưa con tàu vượt qua rào cản và cập bến thành công. Đó là công việc của nhà lãnh đạo - người thuyền trưởng.
Bí quyết quan trọng nhất của người lãnh đạo - thuyền trưởng là sự chuẩn bị. Chuẩn bị thì cũng cần có công thức. Công thức mà John C. Maxwell và nhiều nhà lãnh đạo khác đã áp dụng như sau: “Xác định những kế hoạch hành động - vạch ra mục tiêu - điều chỉnh những ưu tiên - chia sẻ thông tin với những nhân vật chủ chốt khác và nhận được sự chấp nhận của họ - đi thẳng tới hành động - dự kiến khó khăn - luôn hướng về thành công - xem xét lại bản kế hoạch hằng ngày”.
Nguyên tắc số 5: Luật được lắng nghe. Khi nhà lãnh đạo thực thụ lên tiếng, người khác lắng nghe.
Khi người lãnh đạo thực thụ lên tiếng, người khác lắng nghe. Nếu chúng ta nói và người khác không nghe thì chúng ta chưa phải là lãnh đạo thật sự.
Khi mẹ Teresa nói chuyện, tất cả mọi người chăm chú lắng nghe. Khi Alan Greenspan phát biểu trước Quốc hội, mọi người đều lắng nghe. Khi Martin Luther King Jr. diễn thuyết, cả người da trắng và người da đen đều lắng nghe. Họ là những nhà lãnh đạo thực thụ. Không phải cứ có chức quyền và chủ trì một cuộc họp thì đã là người lãnh đạo. Một người lãnh đạo thực sự là người có những yếu tố:
(1) Tính cách: là người như thế nào; (2) Mối quan hệ: quen biết những ai; (3) Kiến thức: biết những gì; (4) Trực giác: cảm thấy điều gì; (5) Kinh nghiệm: trải qua những gì; (6) Thành công: làm được những gì; (7) Khả năng: biết làm những gì.
Nguyên tắc số 5*: Tạo giá trị. Nhà lãnh đạo tạo giá trị bằng cách phục vụ người khác.
“Nhà lãnh đạo là những người phục vụ người khác sống một cuộc sống có giá trị”. Chúng ta thường nghe những định nghĩa sau về công việc của nhà lãnh đạo: nhận lãnh trách nhiệm, điều hành công ty, tạo ra lợi nhuận cho cổ đông, chiến thắng đối thủ cạnh tranh…
Thế nhưng, đó không phải là kết quả cuối cùng của lãnh đạo. Mà đó là mức độ phát triển và thành công của những người làm việc cùng người lãnh đạo. Đó chính là giá trị mà nhà lãnh đạo đã “cộng” cho mối quan hệ giữa họ và những người đi theo sự lãnh đạo của họ.
Jim Sinegal, người đồng sáng lập và Tổng giám đốc của Costco – chuỗi cửa hàng bán lẻ hàng đầu nước Mỹ và thế giới – là một minh hoạ rõ nét của một nhà lãnh đạo tạo giá trị bằng cách phục vụ người khác. Ông không chỉ trả lương cao cho nhân viên mà còn kết nối, quan tâm, tôn trọng và phát triển họ. Sự thành công của Costco ngoài nhờ vào chiến lược kinh doanh giỏi thì còn nhờ vào năng suất làm việc, chất lượng, cũng như sự trung thành của đội ngũ nhân viên.
Nguyên tắc số 6: Luật nền tảng quan trọng: Sự tin tưởng là nền tảng của tinh thần lãnh đạo
Niềm tin là nền tảng quan trọng của người lãnh đạo. Sự nói dối sẽ không dẫn đến một kết quả lãnh đạo tốt. Làm người khách mất niềm tin cũng có nghĩa là tự đẩy mình ra khỏi giới lãnh đạo.
Tạo niềm tin cũng cần sự kết hợp của nhiều yếu tố, gồm: năng lực, tính cách và mối quan hệ và trong đó, tính cách chính là nền tảng quan trọng nhất.Tính cách là nền tảng của sự kết nối, tạo nên tính kiên định, tạo ra tiềm năng, tạo dựng lòng tôn trọng; tính cách tạo ra niềm tin. Và niềm tin tạo nên lãnh đạo.
Tổng thống Johnson và Bộ trưởng Mỹ McNamara đã nói dối người dân Mỹ về cuộc chiến Việt Nam. Kết quả là Johnson phải từ bỏ sự nghiệp chính trị còn McNamara phải từ chức.
Nguyên tắc số 7: Luật tôn trọng: Theo lẽ tự nhiên thì mọi người thường theo sau những người mạnh hơn chính họ
Những người mạnh mẽ tìm kiếm các nhà lãnh đạo mạnh mẽ hơn. Bà Harriet Tubman là một phụ nữ học thức thấp, gần 40 tuổi, cao chưa đầy 1,5 mét, thiếu hai răng cửa, da màu nâu đen nhưng đã làm cho người khác nhận ra sự mạnh mẽ, quyết tâm của bà đối với công cuộc giải phóng nô lệ mà bà tự cho rằng mình có nghĩa vụ phải làm.
Vào những năm 1850 - 1860, bà đã thực hiện 19 cuộc giải cứu cho hơn 30 nô lệ tại miền Nam nước Mỹ, bất chấp vô vàn nguy hiểm và khó khăn.
Bà Harriet Tubman đã giành được sự tôn trọng không chỉ từ tầng lớp nô lệ mà còn cả từ những người có thế lực, tiếng tăm trong xã hội lúc bấy giờ.
Bà Harriet Tubman đã trở thành nhà lãnh đạo lỗi lạc vì mọi người cảm thấy sức mạnh và tài năng lãnh đạo của bà. Họ tôn trọng bà và có cảm giác bị thôi thúc phải theo bà.
Có một sự thật rằng John C. Maxwell - tác giả cuốn sách “21 nguyên tắc vàng trong nghệ thuật lãnh đạo” đã từng thuyết phục được 100% các nhà lãnh đạo chủ chốt của công ty thay đổi cuộc sống và đi theo mình khi ông chuyển công ty Injoy từ San Diego (California) đến Atlanta (Georgia). Đây là minh chứng tuyệt vời về khả năng của ông cũng như nguyên tắc lãnh đạo số 7 này.
Nguyên tắc số 8: Luật trực giác. Nhà lãnh đạo đánh giá được mọi thứ nhờ vào trực giác lãnh đạo của mình.
Cơ hội không đến nhiều lần và người nắm bắt cơ hội là người có được món hời. Nhiều khi chờ đợi 100% thông tin khiến người lãnh đạo vuột mất cơ hội.
Trực giác giúp nhà lãnh đạo nhận biết các yếu tố vô hình trong công tác lãnh đạo. Người lãnh đạo dùng trực giác để: dự báo tình huống, nắm bắt xu hướng, hiểu rõ nguồn lực, hiểu mọi người, và hiểu được chính mình.
Quan điểm của cựu Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ - Tướng Colin Powell là, thu thập được 40-60% thông tin là đã đủ để ra quyết định. Phần 60-40% còn lại, ông dùng trải nghiệm và trực giác để bổ sung.
Nhiều người nghĩ rằng, trực giác hoàn toàn là do bẩm sinh và điều này thì không đúng hoàn toàn. Có những người sinh ra đã mang trong mình trực giác nhưng cũng có người cần thời gian để trau dồi khả năng trực giác của mình. Linh cảm trực giác là yếu tố cần để trở thành một nhà lãnh đạo xuất sắc.
Nguyên tắc số 9: Luật thu hút. Nhà lãnh đạo thu hút những người tương đồng với họ.
Không chỉ là người lãnh đạo, mà mọi người đều bị thu hút bởi những người tương đồng với mình. Những nhà lãnh đạo sẽ hấp dẫn và thu hút những người có sự tương đồng với mình về: thái độ, giá trị, kinh nghiệm cuộc sống, thế hệ (tuổi), thân phận, tài năng lãnh đạo.
Chính vì lẽ đó mà tài năng lãnh đạo của nhà lãnh đạo càng cao thì họ càng có sức hút với những người tải giỏi. Về cơ bản, muốn thu hút được người tài thì người lãnh đạo cũng phải là người tài giỏi.
Nguyên tắc số 10: Luật kết nối - Lãnh đạo chạm tới trái tim người khác trước khi yêu cầu họ ủng hộ mình
Nhà lãnh đạo phải kết nối cảm xúc được với đám đông và với từng người. Người lãnh đạo tài năng luôn tâm niệm và hiểu rằng “lãnh đạo bản thân bằng lý trí, lãnh đạo mọi người bằng trái tim”.
Nhà quản lý nửa vời luôn nghĩ rằng mình ở một vị thế cao hơn và nhân viên phải là người hiểu lãnh đạo của mình, kết nối trái tim với lãnh đạo chứ lãnh đạo hoàn toàn không phải là người chủ động.
Điều đó không đúng đối với nhà lãnh đạo. Những nhà lãnh đạo thật sự hiểu rằng họ phải là người thực hiện kết nối trước với mọi người.
Rất nhiều tấm gương lãnh đạo trên thế giới thể hiện xuất sắc luật kết nối này. Trong đó phải kể đến Napoleon học cách nhớ tên toàn bộ các tướng lĩnh của ông; Robert E.Lee đi thăm tất cả quân lính ở trại vào các đêm trước trận chiến.
Những nguyên tắc kết nối: tự tin với bản thân, kết nối với sự thẳng thắn và trung thực, phải thật sự quan tâm đến từng người mà mình tiếp xúc.
Nguyên tắc số 11: Luật thân tín - Mức độ thành công của nhà lãnh đạo do những người thân tín nhất quyết định.
Nguyên tắc thứ 11 trong nghệ thuật lãnh đạo chính là luật thân tín. Nhà quản trị Lee Jacocca - giám đốc điều hành tập đoàn Ford và Chrysler đã từng nói: “Thành công không đến từ những gì nhà lãnh đạo biết mà đến từ những người mà nhà lãnh đạo biết và con đường nhà lãnh đạo dành cho họ”.
Người lãnh đạo không nên tốn quá nhiều thời gian để thuyết phục, truyền cảm hứng tới những người chống đối mình hay có thái độ tiêu cực. Thay vào đó, nhà lãnh đạo nên truyền năng lượng của mình cho những người tích cực, chia sẻ niềm tin với mình. Những người này sẽ cộng hưởng và truyền năng lượng ngược lại cho nhà lãnh đạo.
Nguyên tắc số 12: Luật phân quyền - Những nhà lãnh đạo bản lĩnh chia sẻ quyền lực cho người khác.
Nhiều nhà lãnh đạo lo sợ khi phân quyền sẽ bị mất vị trí, mất quyền lợi, mất sự tin tưởng, lo sợ người khác hơn mình,...John C Maxwell đã chỉ ra nguyên tắc số 12 trong nghệ thuật lãnh đạo chính là nhà lãnh đạo bản lĩnh phải là người biết chia sẻ quyền lực cho người khác. Không phải nhà lãnh đạo nào cũng tuân thủ theo nguyên tắc này, cả Henry Ford và Henry Ford II đã từng trừ khử những thành viên xuất sắc vì lo sợ cho sự an toàn của bản thân.
Ngược lại, Tổng thống Abraham Lincoln mới là người lãnh đạo thật sự bản lĩnh. Ông đã làm một việc khiến nhiều người ngỡ ngàng là đã lựa chọn chính những đối thủ chính trị làm thành viên nội các của mình. Sự thành công của ông cho thấy tài năng lãnh đạo của tổng thống Hoa Kỳ thứ 16.
Phân quyền giúp cho người được nhận quyền lực có nhiều cơ hội để phát triển khả năng của mình, giúp cho người chia sẻ có thời gian làm những công việc quản lý khác. Người chia sẻ quyền lực cũng lớn mạnh theo người được chia sẻ. Vượt qua rào cản trong suy nghĩ về việc phân quyền đã không phải là đơn giản, công việc của người lãnh đạo là tìm kiếm những người tài giỏi để giúp đỡ mình.
Sự ảnh hưởng bởi những nhà lãnh đạo khác có tác động mạnh đến việc trở thành một người lãnh đạo. Một nghiên cứu về nguyên nhân chính của việc trở thành nhà lãnh đạo cho thấy: Khoảng 10% nhà lãnh đạo có năng lực tự nhiên, 5% được tạo ra từ khủng hoảng, và tới 85% được ảnh hưởng bởi những nhà lãnh đạo khác.
Những nhà lãnh đạo có thể tạo ra nhà lãnh đạo khác có nghĩa là họ đã có khả năng xây dựng môi trường lãnh đạo và tăng tiềm năng phát triển cho tổ chức.
Nguyên tắc số 13: Luật tấm gương - Mọi người làm theo những gì họ thấy.
Nhà lãnh đạo tài năng ngoài việc nhìn xa trông rộng thì cần phải thực tế, họ phải là người biết làm những công việc thực tế và đóng góp cho tổ chức.
Bạn nghĩ sao nếu một giám đốc công ty chỉ rao giảng và thúc giục nhân viên về văn hóa công ty, về tinh thần làm việc tập thể, nhưng bản thân mình lại không làm được và không làm theo những điều này.
Người lãnh đạo nói được nhưng không làm được thì cuối cùng cũng dẫn đến nhân viên mất tin tưởng vào người lãnh đạo, nhân viên không tin theo.
Nguyên tắc số 14: Luật làm cho người khác tin - Mọi người tin vào nhà lãnh đạo trước khi tin vào tầm nhìn của họ.
Bạn có tin rằng mọi người đều có xu hướng tin vào người lãnh đạo trước khi tin vào tầm nhìn của họ. Mahatma Gandhi được biết đến là nhà lãnh đạo vĩ đại nhất của mọi thời đại, người chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ của hàng triệu người dân. Chủ trương của ông là đấu tranh bất bạo động.
Lúc đầu, nhiều người Ấn Độ không tin vào chủ trương này, nhưng họ đã tin vào con người ông, sự lãnh đạo của ông và hàng triệu người dân Ấn đã tin theo tầm nhìn chiến lược và tuân thủ kế hoạch của ông.
Mọi người tìm kiếm nhà lãnh đạo, sau đó mới tìm kiếm ước mơ.
Nguyên tắc số 15: Luật chiến thắng - Nhà lãnh đạo tài ba tìm ra con đường cho toàn đội giành chiến thắng.
Nhà lãnh đạo chiến thắng là nhà lãnh đạo không chấp nhận thất bại. Họ làm mọi việc để đưa tổ chức đến chiến thắng.
Thủ tướng Anh Churchill là một nhà lãnh đạo chiến thắng. Để chiến thắng trước kẻ thù phát xít, ông đã làm mọi việc mà ông có thể làm: tập hợp nhân dân, dàn quân, liên kết với Liên Xô, thuyết phục tổng thống Mỹ tham gia cuộc chiến…
Herb Kelleher, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc của hãng hàng không SouthWest, đã lãnh đạo bản thân và South West vượt muôn vàn khó khăn để đi đến thành công. Và ông vẫn tiếp tục chiến đấu cho những thằng lợi kế tiếp của SouthWest.
Ba yếu tố cần thiết để chiến thắng: sự đồng thuận và đồng tâm của toàn bộ các thành viên trong tổ chức; kỹ năng cao của từng thành viên; người lãnh đạo cống hiến cho chiến thắng và phát triển từng người trong tổ chức, phát huy tiềm năng của họ.
Nguyên tắc số 16: Luật quán tính - Quán tính là người bạn tri kỷ của nhà lãnh đạo.
Quán tính quan trọng như thế nào trong chuyển động thì nó cũng có tác dụng như thế trong lãnh đạo.
Không có quán tính, không có động lực, mọi việc sẽ bị ngừng tại chỗ.
Nhà lãnh đạo phải biết cách tạo ra động lực, tạo ra quán tính cho người khác để vượt qua mọi trở ngại khó khăn.
Nguyên tắc số 17: Luật ưu tiên - Nhà lãnh đạo tập trung vào công việc được ưu tiên.
Nhà lãnh đạo giỏi là người xác định rõ mức độ ưu tiên của những công việc và họ sẽ không bao giờ tập trung làm những gì ngoài danh sách ưu tiên. Người lãnh đạo áp dụng nguyên lý Pareto và nguyên tắc 3R trong công việc của mình.
Nguyên tắc 3R: Căn cứ vào yêu cầu (Requirement), kết quả (Return) và phần thưởng (Reward) để xác định những điều cần ưu tiên thực hiện.
Nguyên lý Pareto: Nếu chúng ta tập trung vào 20% những điều quan trọng, chúng ta sẽ đạt được 80% hiệu quả của công việc.
Nguyên tắc số 18: Luật hy sinh - Nhà lãnh đạo phải biết hy sinh để tiến tới.
Đôi khi nhà lãnh đạo phải sẵn sàng hi sinh, mất đi một cái gì đó để có thể tiến về phía trước. Trong những hoàn cảnh khó khăn, nhà lãnh đạo doanh nghiệp thậm chí phải hy sinh làm việc 24/24 mà không nhận được tiền lương, thù lao, cũng như sự cảm kích nào. Đó là nguyên tắc hy sinh: lùi 1 bước để tiến 2 bước.
Để đạt được mục tiêu, nhà lãnh đạo phải hy sinh; để giữ vững vị trí, nhà lãnh đạo phải hy sinh nhiều hơn.
Nguyên tắc số 19: Luật thời cơ. Đối với việc lãnh đạo, thời điểm là cực kỳ quan trọng.
Đôi khi thời cơ còn quan trọng hơn cả tài năng. Với những nhà lãnh đạo cũng thế, nhận ra thời cơ, chớp lấy thời cơ, tạo ra thời cơ là vô cùng quan trọng để trở thành một lãnh đạo tài năng.
Minh chứng điển hình cho điều này đó là ông Jimmy Carter - người đàn ông là thống đốc bang Georgia đã trở thành Tổng thống Mỹ thứ 39. Ông đã nhận thấy thời cơ quý báu đến từ sự lo ngại của nước Mỹ về chiến tranh Việt Nam và vụ bê bối Watergate để tiến hành chiến dịch tranh cử và đã chiến thắng.
Hành động đúng vào thời điểm đúng sẽ đem lại kết quả tốt không ngờ cho nhà lãnh đạo.
Nguyên tắc số 20: Luật tăng trưởng bùng nổ - Để tăng trưởng, hãy lãnh đạo cấp dưới. Để bùng nổ, hãy lãnh đạo nhà lãnh đạo.
Lãnh đạo những nhà lãnh đạo - Những nguyên tắc của C Maxwell có mối liên hệ với nhau khá rõ ràng. Nguyên tắc số 12 - Luật phân quyền chính là tiền đề để tạo ra thêm nhiều nhà lãnh đạo khác.
Muốn có sự tăng trưởng bùng nổ, nhà lãnh đạo tài giỏi phải là thủ lĩnh của những nhà lãnh đạo khác với nhiều người được lãnh đạo bên dưới. Sức mạnh của tổ chức được tăng lên theo cấp số nhân.
Nguyên tắc số 21: Luật di sản - Giá trị bền vững của một nhà lãnh đạo được đo bằng sự kế thừa.
Ông Roberto C.Goizueta - Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Coca-Cola khi mất đi một cách bất ngờ đã để lại một di sản tuyệt vời cho những người kế thừa ông. Chính vì lẽ đó mà đến tận bây giờ thì Coca-Cola vẫn là tập đoàn số 1 về nước uống không cồn.
Những nhà lãnh đạo tài ba luôn để lại di sản, nền móng cơ bản tạo nên hiệu quả và thành công của tổ chức cho những nhà lãnh đạo kế tiếp.
Tổ chức của họ vẫn phát triển trên nền tảng di sản đã xây dựng và để lại sau khi người lãnh đạo ra đi.
Khoa học hiện đại mới bắt đầu nghiên cứu về lãnh đạo học được vài chục năm, trong khi đó các trường phái triết học đã từ rất lâu bàn về lãnh đạo. Các “đạo” hay trường phái triết học lớn của phương Đông đã đưa ra những luận điểm, nguyên tắc về lãnh đạo quốc gia, lãnh thổ, gia đình… Đó chính là Đạo Khổng, Đạo Lão, Đạo Phật.
Lão Tử là một triết gia và một nhà tư tưởng vĩ đại, có tầm ảnh hưởng rất lớn và quan trọng đối với nền triết học Đông phương cũng như của nhân loại sau này. Có thể nói, ông sánh ngang với Khổng Tử và một số tư tưởng gia khác trong lịch sử triết học cổ đại của Trung Hoa. Chính vì vậy, học thuyết cũng như tư tưởng của ông có địa vị quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến đời sau.
Tư tưởng của Lão Tử được thể hiện trong tác phẩm kinh điển “Đạo đức kinh”. Đây được xem như tác phẩm triết học đầu tiên quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn của Trung Hoa. Chỉ có vỏn vẹn 5,000 từ nhưng cuốn sách này có tác động sâu sắc tới văn hóa, chính trị, đời sống của Trung Hoa và một số nước Đông Á trong đó có Việt Nam.
Tư tưởng của Đạo Lão có thể được khái quát với các ý sau:
Vô vi nhi trị
Dĩ nhu khắc cương
Công toại, thân thoái
Nho giáo (儒教), còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng (Nhơn đạo) là một hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội hài hòa, trong đó con người biết ứng xử theo lẽ phải và đạo đức[1], đất nước thái bình, thịnh vượng. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước Đông Á là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam.
Nho giáo chủ trương: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh (Dân là quý nhất, rồi đến đất nước, cuối cùng mới là vua)". Khổng Tử từng nói "Cao quý thay vua Thuấn và vua Vũ! Được cả thiên hạ mà vẫn cảm thấy việc này không có gì đáng vui hoặc kiêu hãnh cả.".
Nho giáo có quan niệm cai trị bằng nhân nghĩa, bằng cách giáo dục quần chúng. Khổng Tử nói: "Dùng mệnh lệnh pháp luật để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như vậy có thể giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân thì dân sẽ hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, sẽ cam tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ tư tưởng". Người lãnh đạo ra lệnh cho dân chúng thực hành nhân ái nhưng mình lại tàn bạo, thì dân nhất định chẳng nghe theo. Nếu bậc thiện nhân lãnh đạo quốc gia, sau một trăm năm có thể cảm hóa kẻ tàn bạo thành lương thiện, không cần gì đến hình phạt nữa. Không nên gào thét và nghiêm sắc mặt để giáo hóa dân chúng vì có thể cướp cờ, đoạt tướng giữa ba quân, nhưng không thể cướp đoạt được chí khí của một người dân bình thường. Người có thể ban ân cho dân chúng và cứu giúp chúng sinh không chỉ là người nhân mà đáng gọi là bậc thánh nhân. Người lãnh đạo phải thuận theo lòng dân, thích những điều dân thích và ghét những điều dân ghét. Vua Hạ Kiệt bị Nho giáo coi là bài học điển hình cho việc mất nước vì tàn bạ
Ngay từ năm 1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn sâu sắc về cách lãnh đạo huy động trí tuệ quần chúng, học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng, chủ động dẫn dắt quá trình kiến tạo tri thức của tập thể, cộng đồng để tạo nên những quyết định lãnh đạo sáng suốt.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Người lãnh đạo không nên kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Sự hiểu thấu và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm của mình... Nghĩa là phải lắng tai nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của “những người không quan trọng”(1).
Người đã lập luận hết sức thuyết phục rằng: “Những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi của mọi người: trông từ trên xuống. Vì vậy sự trông thấy có hạn. Trái lại, dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người, một mặt khác: họ trông thấy từ dưới lên. Nên sự trông thấy cũng có hạn. Vì vậy, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại. Muốn như thế, người lãnh đạo ắt phải có mối liên hệ chặt chẽ giữa mình với các tầng lớp người, với dân chúng”(1).
Là một người có trí tuệ uyên bác, nhưng trong lãnh đạo, Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin tuyệt đối vào trí tuệ của nhân dân, luôn tin rằng họ là người hiểu nhất vấn đề của chính họ, cái mấu chốt là cán bộ lãnh đạo phải làm sao để khơi dậy nguồn lực trí tuệ đó. Người chỉ rõ: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(1).
Theo Hồ Chí Minh, muốn huy động được trí tuệ quần chúng nhân dân, phải từ bỏ cách lãnh đạo quan liêu, mệnh lệnh, áp đặt từ trên xuống rồi bắt quần chúng theo; thay vào đó là cách lãnh đạo “Làm theo cách quần chúng”.Khi đề cập cách thức lãnh đạo Làm theo cách quần chúng, Người chỉ rõ: “Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ. Được dân chúng đồng ý. Do dân chúng vui lòng ra sức làm”(1).
Để thực hiện cách thức lãnh đạo này một cách có hiệu quả, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn rất cụ thể:
Thứ nhất,cán bộ cần phải hiểu rõ đặc điểm tâm lý, trình độ của quần chúng nhân dân, xem đó như một phần tất yếu của bối cảnh lãnh đạo. Người đã chỉ ra thuộc tính tĩnh của dân chúng: có lớp tiền tiến, có lớp lừng chừng, có lớp lạc hậu.Vì lý do đó, như một lẽ tất nhiên, ý kiến của mọi người sẽ rất khác nhau. Người nhấn mạnh ưu thế động của dân chúng, là sự cảm nhận, so sánh theo thời gian, so sánh theo bối cảnh không gian cụ thể. Cùng với đó là năng lực tổng quát của dân chúng trong việc phát hiện ra mâu thuẫn và đề ra cách giải quyết.
Thứ hai,khi đã hiểu rõ đặc điểm tâm lý, trí tuệ của quần chúng thì cán bộ nên sử dụng phương pháp gợi mở vấn đề và kích thích tư duy phản biện trong chính những người dân để cùng nhau giải quyết vấn đề. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “khi đem vấn đề ra bàn trước dân chúng, họ đem các ý kiến khác nhau so sánh. So đi sánh lại, sẽ lòi ra một ý kiến mà mọi người đều tán thành, hoặc số đông người tán thành. Ý kiến đó, lại bị họ so sánh tỷ mỷ từng đoạn, họ thêm điểm hay vào, bỏ điểm dở đi. Ý kiến đó trở thành ý kiến đầy đủ, thiết thực. Sau khi bàn bạc, so sánh, thêm thắt, thành một ý kiến đầy đủ, ý kiến đó tức là cái kích thước nó tỏ rõ sự phát triển trình độ của dân chúng trong nơi đó, trong lúc đó. Theo ý kiến đó mà làm, nhất định thành công. Làm không kịp ý kiến đó, là đầu cơ, nhút nhát. Làm quá ý kiến đó là mạo hiểm, hẹp hòi, “tả””(1).
Hồ Chí Minh hết sức phê phán những cán bộ có thái độ coi thường trí tuệ của nhân dân. Người viết: “Có người thường cho dân là dốt, không biết gì, mình là thông thái tài giỏi. Vì vậy, họ không thèm học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân chúng. Đó là một sai lầm nguy hiểm lắm. Ai có sai lầm đó, phải mau sửa đổi. Nếu không sẽ luôn luôn thất bại”(1).
Thứ ba, tin vào trí tuệ của nhân dân, nhưng người lãnh đạo không được “theo đuôi quần chúng” mà phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, phải đóng vai trò chủ động, tích cực, năng động, sáng tạo trong dẫn dắt quá trình kiến tạo tri thức tập thể để đưa ra các quyết định hợp lý. Vai trò của lãnh đạo trong quá trình ra quyết định thể hiện ở chỗ biết phát huy những kiến thức, phương pháp lý luận khoa học đã được học để so sánh, tổng hợp các ý kiến của nhân dân, làm sâu sắc hơn, lý giải cơ sở khoa học của nó và tiếp tục đưa sản phẩm tư duy, sáng tạo của mình cho nhân dân phản biện. Về luận điểm này, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cố nhiên, không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo. Người cán bộ cũng phải dùng cách so sánh của dân chúng mà tự mình so sánh. Nghĩa là đem các ý kiến khác nhau để so sánh kỹ, phân tích kỹ các nội dung của các tầng lớp xã hội có cái ý kiến đó. Tìm ra mối mâu thuẫn trong những ý kiến khác nhau đó. Xem rõ cái nào đúng, cái nào sai. Chọn lấy ý kiến đúng, đưa ra cho dân chúng bàn bạc, lựa chọn lại, để nâng cao dần dần sự giác ngộ của dân chúng.” (1) “Gom góp ý kiến và kinh nghiệm trong sự chỉ đạo từng bộ phận, đem làm ý kiến chung. Rồi lại đem ý kiến chung đó để thí nghiệm trong từng bộ phận. Rồi lại đem kinh nghiệm chung và mới, đúc thành chỉ thị mới. Cứ như thế mãi. Biết làm như vậy mới thật là biết lãnh đạo.”(1)
Như vậy, trong chu trình vận động và phát triển tri thức của tập thể, của cộng đồng, Hồ Chí Minh vừa coi trọng vai trò của quần chúng nhân dân, vừa nhấn mạnh đến vai trò, sứ mệnh của người lãnh đạo trong việc tổ chức, dẫn dắt quá trình kiến tạo tri thức - tổ chức đối thoại, tranh luận nhằm tìm ra chân lý và tổ chức thực hành để kiểm nghiệm chân lý trong thực tiễn, rồi lại nâng kinh nghiệm thực tiễn (cũ và mới) thành lý luận mới, chính sách mới.
Tư tưởng lãnh đạo phục vụ đã được hình thành từ lâu trong các giá trị truyền thống của khu vực công tại Việt Nam, đó là một nền hành chính lấy người dân làm trung tâm.
Để có thể vận dụng thành công lý thuyết lãnh đạo phục vụ trong hệ thống khu vực công tại Việt Nam, cần chú trọng tới một số vấn đề sau:
Một là, xây dựng và áp dụng khung năng lực cho đội ngũ lãnh đạo. Bắt đầu từ những năm 1990, các khung năng lực lãnh đạo đã được khu vực tư nhân áp dụng rộng rãi như một phương tiện mang lại hiệu quả kinh doanh trong thời đại gia tăng khả năng cạnh tranh và khan hiếm nguồn lực. Trong khu vực công, việc xây dựng các khung năng lực lãnh đạo đã được nhiều quốc gia quan tâm và vận dụng.
Hai là, thay đổi phương thức tìm kiếm và lựa chọn các nhà lãnh đạo khu vực công. Nhiều nước đã chú trọng xây dựng chiến lược quản lý công chức lãnh đạo và có các chương trình lựa chọn, phát triển công chức lãnh đạo riêng. Muốn trở thành nhà lãnh đạo khu vực công cần phải qua thi tuyển. Các vị trí công vụ cao cấp này thường được thông báo công khai để mọi đối tượng nếu đáp ứng được yêu cầu đều có thể dự tuyển. Năng lực thực tiễn được xem là tiêu chí quan trọng hơn bằng cấp. Đối tượng dự tuyển có thể là những công chức cao cấp đang làm việc trong nền công vụ, người làm việc trong khu vực tư hoặc những người đáp ứng được yêu cầu mặc dù chưa làm việc trong khu vực nhà nước hoặc không có thâm niên. Những người này nếu trúng tuyển sẽ được bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo khu vực công và làm việc theo chế độ hợp đồng.
Ba là, phát triển năng lực cho đội ngũ lãnh đạo khu vực công thông qua các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng để thực sự trở thành những nhà lãnh đạo phục vụ. Năng lực lãnh đạo có thể được phát triển thông qua kinh nghiệm và đào tạo. Trên cơ sở các khung năng lực cho lãnh đạo, các tiêu chuẩn về chức danh lãnh đạo trong hệ thống khu vực công, các chương trình bồi dưỡng cho đối tượng công chức lãnh đạo, quản lý ở nước ta cần tập trung vào mục tiêu nâng cao các năng lực như: năng lực lãnh đạo; năng lực tư duy chiến lược và quy hoạch; năng lực hoàn thành nhiệm vụ; năng lực quản lý nhân sự; năng lực giao tiếp; năng lực quản lý tài chính và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác; năng lực công tác cá nhân, tư duy sáng tạo; năng lực phán đoán.
Bốn là, các nhà lãnh đạo khu vực công cần nuôi dưỡng và thúc đẩy thực hiện các giá trị cốt lõi của khu vực công. Có ba loại giá trị gồm: đạo đức; dân chủ và sự chuyên nghiệp. Các giá trị đạo đức bao gồm công bằng, liêm chính và bình đẳng, trong khi các giá trị dân chủ giải quyết các mối quan tâm về dân chủ và sự đáp ứng. Sự chuyên nghiệp bao gồm sự xuất sắc, năng lực chuyên môn, đổi mới, hiệu quả và hiệu lực. Để xây dựng được một nền công vụ hiện đại, phục vụ nhân dân, cần xây dựng một đội ngũ lãnh đạo có đủ năng lực, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất tốt, trung thành, tận tụy và chuyên nghiệp. Đạo đức công vụ cần được chú trọng xây dựng và rèn luyện bởi đây là yếu tố quyết định mức độ cống hiến của lãnh đạo khu vực công đối với người dân và xã hội. Các hệ thống giá trị công vụ như: liêm chính, trung thực, khách quan, trung thành, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân cần được gìn giữ và phát huy đối với các nhà lãnh đạo khu vực công.
Năm là, tháo gỡ các rào cản về văn hoá quản lý công cũ và tư duy ngại đổi mới. Hầu hết các nước châu Á đều có chung một truyền thống cai trị quan liêu với văn hóa quan liêu tập trung cao trong khu vực công. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong cải cách khu vực công theo hướng hiện đại, phù hợp hơn với những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống và xu hướng toàn cầu hóa, nhưng nhiều quốc gia vẫn vấp phải tư duy quan liêu và văn hóa cai trị theo kiểu cũ.
Vui lòng liên hệ email admin@phattriendiaphuong.vn để nhận thêm thông tin về chủ đề Lãnh Đạo Học.