https://s.docworkspace.com/d/AFn6Cr3ModIu4p-3jd6mFA
http://vn.minghui.org/news/86558-kinh-nghiem-huong-noi-cua-toi.html
http://vn.minghui.org/news/86459-hoc-cach-chan-chinh-huong-noi.html
Kính chào Sư phụ tôn kính!
Xin chào các bạn đồng tu!
Sư phụ giảng:
“Là người tu luyện, ‘tìm bên trong’ là một Pháp bảo.” (Giảng Pháp tại Pháp hội Washington DC năm 2009)
Khi bàn đến vấn đề ‘tìm bên trong’ hay còn gọi là ‘hướng nội tìm’, tôi biết có không ít học viên, cả học viên mới lẫn học viên lâu năm, đều cảm thấy lúng túng, chưa biết hướng nội như thế nào. Nhiều người đưa ra câu hỏi, hướng nội tìm là như thế nào? Làm sao để hướng nội? Tôi không biết hướng nội như thế nào cả? cũng có người nói: “Tôi cũng đã hướng nội rồi, nhưng không tìm thấy gì cả”, v.v..
Trong quá trình tu luyện, tôi cũng trải qua nhiều chặng đường thăng trầm, đi qua nhiều quan ải ở các phương diện khác nhau. Từ đó tôi ngộ ra được rằng, hướng nội tìm có nội hàm rộng lớn, nhưng không hẳn là quá khó để thực hiện.
Sư phụ giảng:
“Toàn bộ quá trình tu luyện của người ta chính là quá trình liên tục tống khứ tâm chấp trước của con người.” (Bài giảng thứ nhất - Chuyển Pháp Luân)
Tôi hiểu được rằng, hướng nội tìm chính là quá trình đi tìm các tâm chấp trước của bản thân mình qua các chủng các dạng hoàn cảnh, đề từ đó buông bỏ nó.
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin được chia sẻ những thiển ngộ cá nhân tại tầng thứ sở tại của mình về cách hướng nội tìm chấp trước ở một số phương diện; còn để buông bỏ các chấp trước đó như thế nào thì tôi không bàn luận đến, nó tuỳ thuộc vào sự tu luyện của từng người. Bài viết chỉ là thể ngộ cá nhân, vẫn còn nhiều hạn chế trong nhận thức, mong các đồng tu thiện tâm chỉ ra chỗ thiếu sót.
Trong tu luyện, chúng ta không tránh khỏi những mâu thuẫn, xung đột xảy ra. Mỗi khi gặp vấn đề, nếu chúng ta không thực sự ở trong Pháp, thì thường dễ sa vào lý luận của người thường và nhìn sự việc đúng sai theo lý của người thường. Mỗi khi xung đột, mâu thuẫn đến, tôi thường dùng Pháp lý Sư phụ giảng: “Cái đúng là họ, cái sai là mình” (Ai đúng ai sai - Hồng Ngâm III) để tìm ra những ràng buộc, những thiếu sót của bản thân, từ đó buông bỏ chấp trước, đề cao lên trên.
Sư phụ giảng:
“Hãy tu bản thân chư vị một cách chân chính, gặp mâu thuẫn, gặp vấn đề thì xem bản thân mình sai ở đâu, mình nên đối đãi thế nào, hãy dùng Pháp để đo lường. Mọi người thử nghĩ xem, đó chẳng phải chính là tu luyện sao?” (Đệ tử Đại Pháp nhất định phải học Pháp)
Làm sao để tìm ra cái ‘cái đúng của họ’, và ‘cái sai của mình’? Chúng ta hãy đi xem xét một số phương diện xung đột, mâu thuẫn.
a. Mâu thuẫn với người không tu luyện (người thường).
Theo thể ngộ cá nhân, đây là dạng xung đột, mâu thuẫn lúc chúng ta mới bắt đầu bước vào tu luyện, thì những mâu thuẫn này thường xuất hiện. Với dạng mâu thuẫn này, chúng ta có thể dễ dàng thấy được cái đúng của họ, cái sai của mình. Phương diện đơn giản nhất là: Họ đúng vì họ không biết Pháp lý, còn mình sai vì mình biết rõ Pháp lý mà còn đi hơn thua với họ. Ở xã hội người thường có câu: “không biết không có tội, biết mà còn phạm thì tội lại tăng thêm”, như câu chuyện cổ rằng, có hai người tranh cãi với nhau về phép toán 4x4 bằng bao nhiêu. Một người trả lời bằng 16, còn một người trả lời bằng 17. Hai người tranh cãi tới lui mãi không ai chịu thua ai. Cuối cùng hai người quyết định lên công đường nhờ quan phân giải. Sau khi nghe xong đầu đuôi câu chuyện, quan liền cho người 4x4=17 ra về, và lệnh cho sai nha đưa người 4x4=16 ra ngoài đánh 50 hèo rồi mới thả về. Sau khi bị đánh anh ta không phục, hỏi quan vì sao mình đúng mà lại bị đánh. Lúc đó quan mới dạy rằng: “Ngươi biết đó là đúng mà còn đi cãi với kẻ không biết làm gì, đó là chân lý rồi. Tội của người là đi tốn thời gian vào kẻ khác và làm tốn thời gian của quan, nên bị đánh là phải. Còn tên kia nó chưa có nhận thức thì trả nó về xã hội để xã hội giáo dục lại, ngươi có nói cỡ nào nó cũng không nghe.”
Một phương diện khác, bước đầu tu luyện của chúng ta là thiện giải hết thảy duyên nợ từ các tiền kiếp, những mâu thuẫn xung đột đến cũng là để chúng ta hoàn trả nghiệp. Họ là chủ nợ, tìm mình đòi nợ thì là đúng lý. Mình nợ mà không trả, còn có thái độ này nọ với họ, thì chính là mình đang sai.
Sư phụ giảng:
“Gặp việc không vui, gặp việc khiến chư vị tức giận, gặp lúc lợi ích cá nhân hoặc ‘cái tôi’ bị va chạm, chư vị có thể nhìn vào trong, tu bản thân mình, tìm chỗ sơ sót của mình, trong mâu thuẫn chư vị không lầm lỗi thì cũng có thể thế này: ‘A, mình minh bạch rồi, mình nhất định chỗ nào đó chưa tốt, mà thật sự không sai, thì có thể là nợ nghiệp trước đây, mình sẽ làm nó cho tốt, cái gì cần hoàn trả thì trả’.” (Đệ tử Đại Pháp nhất định phải học Pháp)
Theo thể ngộ cá nhân, khi bị người khác đánh một đấm, tát một cái, hay nhục mạ một câu, thì có thể là trước đây mình đã từng làm như thế với người ta, giờ trả lại; nếu trong tâm mình cảm thấy khó chịu, cảm thấy bực tức, thì chính là bản thân vẫn còn chấp trước. Chấp trước đang còn thì cần có người khiến mình bộc lộ nó ra để từ đó mà buông bỏ. Xét ở phương diện này thì việc người ta đánh, nhục mạ mình cũng là đúng lý. Nếu không có ai tạo ra hoàn cảnh xung đột, thì làm sao có thể lôi tâm chấp trước của mình biểu hiện ra bề mặt để nhận ra nó.
b. Mâu thuẫn giữa các đồng tu
Đây là dạng mâu thuẫn, xung đột ở một mức độ khó hơn. Trong khi xảy ra các mâu thuẫn này, chúng ta thường gặp phải các loại tình huống như: tôi cũng có Pháp, tôi mới là dựa theo Pháp, người kia chưa dựa theo Pháp; người nào cũng cho cái lý của mình mới là đúng, nếu không thật sự hướng nội thì mâu thuẫn sẽ đẩy lên cao, tạo những giãn cách giữa các đồng tu.
Sư phụ giảng:
“Va chạm nhân tâm với nhau, không hướng nội tìm, đều dùng nhân tâm nghĩ vấn đề, chư vị không coi trọng họ, người này coi thường người kia, dần dần hình thành gián cách, không hàn gắn được nữa, giống như người thường vậy.” (Giảng Pháp tại Pháp hội New York 2010)
Theo thể ngộ cá nhân, khi xảy ra vấn đề giữa hai người tu luyện, thì thường do bản thân người tu luyện còn tâm chấp trước mà phát sinh. Cả hai người, ai cũng còn tâm chấp trước ở trong đó, nên mới ở trong cùng một hoàn cảnh này. Nhưng tu luyện hướng nội tìm, thì tự bản thân mỗi người cần làm được, là tìm thấy cái sai của mình và cái đúng của người kia. Quá trình này khởi tác dụng ở hai phương diện, tìm được cái sai của mình là tìm thấy được chấp trước của bản thân đang biểu hiện ra, từ đó mà buông bỏ; tìm thấy cái đúng của người kia, là nhìn vào mặt tốt mà không nhìn vào mặt thiếu sót của người khác. Nếu chỉ thấy mình đúng, người khác sai, thì có thể sinh tâm hiển thị, tự mãn cá nhân, bảo thủ,... thậm chí là tâm coi thường người khác.
Có lẽ sẽ có người nói, nếu vậy thì trong tất cả mọi tình huống mình không có gì đúng, và người khác không có gì sai hay sao? Theo thiển ý cá nhân thì không phải là cái lý đó. Ai cũng có cái đúng, có cái chưa đúng trong đó. Tuy nhiên cách để hướng nội tìm, là người này thấy cái sai của mình và cái đúng của người kia; đổi lại, người kia thấy cái sai của bản thân họ và thấy cái đúng của người này. Từ đó mỗi người tu bỏ phần thiếu sót của mình thì tự khắc mâu thuẫn cũng được hoá giải.
Sư phụ giảng:
“Người tu luyện vĩnh viễn là tu chính mình, từng chút biến hoá nhân tâm ấy là đề cao, chư Thần đều nhìn thấy.” (Lời chúc gửi Pháp hội Châu Âu [2016])
Tôi thể ngộ được rằng, trong các hoàn cảnh xung đột, người nào có thể nhận ra cái sai của mình để tu bỏ nó trước thì người đó đề cao lên trước. Tu luyện là tu chính mình thì việc mình tu bỏ chấp trước của mình mới là căn bản. Dù có thấy được chấp trước của người khác, mà không buông bỏ được chấp trước của mình thì cũng chẳng đề cao lên được.
Cũng sẽ có người nói: Tôi đã tìm rồi nhưng không thấy sai ở đâu và cũng không thấy họ đúng ở chỗ nào. Trong trường hợp này, thì ít nhất mình sai ở chỗ là không nhìn thấy được thiếu sót của bản thân. Trong xung đột, ắt hẳn là có phương diện cần tu bỏ, tìm không thấy nó chính là mình chưa đúng. Còn họ đúng có thể là vì họ cần buông bỏ chấp trước đang có nên mới an bài để họ tham gia vào trong xung đột. Lấy một ví dụ thế này, người kia có chấp trước cần tu bỏ, thì cần có người để họ phát tiết ra. Họ tìm đến mình gây sự. Nếu tâm mình thản nhiên, thì có lẽ trước đây mình nợ họ mà không biết, nay trả lại. Trường hợp này thì mình sai vì mình mắc nợ, họ đúng vì cần tạo hoàn cảnh để họ tu bỏ và vì họ đang đòi nợ. Nếu mình tỏ ra khó chịu, bức xúc, thì chính là mình còn tâm chấp trước chưa vứt bỏ được. Trường hợp này thì mình sai là còn có lậu, còn chấp trước; họ đúng vì họ đang tạo hoàn cảnh cho mình tu. Dù trong bất kỳ trường hợp nào, nếu chúng ta thật sự dựa theo Pháp để hướng nội thì đều sẽ tìm được cái đúng của họ và cái sai của mình.
Sư phụ giảng:
“Có lẽ chư vị bảo rằng lời nói kia làm chư vị rất cáu, đụng trúng chỗ đau của chư vị, chư vị mới cảm thấy bị kích thích [cáu giận]. Cũng có lẽ là thật sự oan uổng cho chư vị, nhưng lời đó lại không nhất định là họ nói đâu, có thể là tôi nói đó.” (Giảng Pháp tại Manhattan [2006])
c. Mâu thuẫn với bản thân mình (Mâu thuẫn nội tại) .
Mâu thuẫn nội tại là dạng mâu thuẫn không dễ nhìn thấy, bởi nó không biểu hiện ra bề mặt. Nó khác với hai dạng mâu thuẫn với người không tu luyện, và với bạn đồng tu; hai dạng mâu thuẫn này biểu hiện ra bề mặt rất rõ, nên rất dễ nhìn thấy, nếu bản thân không nhìn thấy thì người khác cũng có thể nhìn thấy và nhắc nhở giúp cho nhau.
Mâu thuẫn nội tại là những xung đột giữa các tư tưởng của bản thân, chỉ có tự bản thân người tu luyện mới có thể nhận biết được qua quá trình tu luyện của mình. Nó có thể là những tín tức ngoại lai, hay những tư tưởng xuất phát từ các ham muốn, dục vọng của người thường, hoặc trong các hoàn cảnh tu luyện phát xuất ra những tư tưởng, ý niệm. Các mâu thuẫn nội tại luôn xuất hiện mọi lúc, và ở mọi hoàn cảnh. Trong những xung đột với người không tu luyện, với bạn đồng tu đều phát sinh mâu thuẫn nội tại; trong các hoàn cảnh tu luyện, học Pháp, luyện công, hay trong cuộc sống hàng ngày,... mâu thuẫn nội tại đều có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào. Lấy một ví dụ: khi chúng ta luyện công, luyện công yêu cầu là không suy nghĩ gì cả, tuỳ cơ nhi hành, tuy nhiên trong khi đang luyện thì có rất nhiều tư tưởng ập đến, hết cái này đến cái khác. Sự xuất hiện các tư tưởng lúc đó chính là một trong các dạng mâu thuẫn nội tại.
Đối với các mâu thuẫn nội tại, thì việc đi tìm cái đúng cái sai lại chính là tìm trong bản thân mình; ai đúng ai sai trở thành mình đúng chỗ nào và mình sai chỗ nào. Cách hướng nội tìm trong dạng mâu thuẫn này, chính là lấy Pháp để đo lường xem những tư tưởng, suy nghĩ của bản thân có phù hợp hay không trong chủng hoàn cảnh đó. Có những tư tưởng ở trong hoàn cảnh này thì tốt, nhưng trong hoàn cảnh khác thì lại chưa tốt. Quay trở lại ví dụ phía trên, chẳng hạn khi đang luyện công thì có suy nghĩ là chút nữa mình sẽ đến giảng chân tướng cho vị kia, mình sẽ giảng như thế, như thế. Nếu xét ở phương diện là mong muốn giúp người khác hiểu chân tướng, thì suy nghĩ đó rất tốt, nhưng xét ở hoàn cảnh đang lúc luyện công mà tư tưởng không tập trung thì không còn tốt nữa.
Sư phụ giảng:
“khi chúng ta luyện công, chư vị không nghĩ việc tốt, thì cũng không thể nghĩ việc xấu; tốt nhất là đừng nghĩ gì hết.” (Bài giảng thứ năm - Chuyển Pháp Luân)
Qua quá trình tu luyện, tôi thể ngộ được rằng, hướng nội trong mâu thuẫn nội tại là phân biệt xem tư tưởng vừa xuất hiện thuộc dạng thức nào. Một số dạng thức tư tưởng theo sự phân biệt của cá nhân là: tư tưởng không phải của bản thân (có thể gọi là tín tức ngoại lai), tư tưởng bất hảo, tư tưởng thuần chính, tư tưởng phù hợp hay không phù hợp hoàn cảnh, trạng thái vô vi. Các dạng thức tư tưởng này cũng không có tiêu chuẩn cụ thể, mà nó tuỳ thuộc vào cảnh giới của người tu luyện mà có những sự phân biệt khác nhau. Đối với mỗi người, qua mỗi tầng thứ tu luyện thì sự phân biệt này cũng khác nhau.
Lấy ví dụ, thuở đầu tu luyện, khái niệm của tôi về ‘tư tưởng không phải của bản thân’ là: những tư tưởng bất hảo đột nhiên xuất hiện trong đầu mình, mà những tư tưởng đó mình không muốn nghĩ đến nhưng nó vẫn xuất hiện. Qua một quá trình tu luyện, khái niệm của tôi về ‘tư tưởng không phải của bản thân’ được mở rộng ra: ngoài những tư tưởng bất hảo mình không muốn nghĩ đến nhưng nó vẫn đến, thì còn những tư tưởng mà trước đây nó thực sự là của mình, nhưng bây giờ nó xuất hiện trong hoàn cảnh không phù hợp. Chẳng hạn, trước đây mình có những kế hoạch về một hạng mục nào đó, một sự việc nào đó rất chính, mình đã có những suy nghĩ tích cực nào đó,… nhưng hiện tại khi mình đang luyện công, hay đang lúc học Pháp, thì đột nhiên các suy nghĩ đó xuất hiện. Trong trường hợp này, tôi có nhận thức là những tư tưởng đó không phải là tư tưởng của bản thân, mà nó chính là do nhân tố nào đó muốn can nhiễu đến việc mình luyện công, học Pháp nên đã lấy những tư tưởng của mình trước đây ép nhập vào trong hoàn cảnh này. Dạng thức tư tưởng này cũng tuỳ vào mỗi người mà nó có thể được xem là dạng thức tư tưởng “không phù hợp với hoàn cảnh”.
Ở một phương diện khác, tu luyện trong thời kỳ Chính Pháp, theo thể ngộ cá nhân, lấy tu luyện cá nhân làm căn bản và cứu độ chúng sinh là quan trọng. Như vậy, khi một tư tưởng xuất hiện thì cần xét xem nó có thuộc về phương diện đề cao tu luyện, hay gián tiếp hoặc trực tiếp khởi tác dụng cứu độ chúng sinh hay không. Đây cũng là một phương diện để hướng nội trong mâu thuẫn nội tại.
Trong tu luyện cá nhân, khi xảy ra một vấn đề nào đó, tôi thường có rất nhiều tư tưởng nảy sinh, khi cân nhắc ở các phương diện thì nhận thấy mỗi suy nghĩ, tư tưởng phát xuất ra đều có những tư tâm, chấp trước của mình ở trong đó. Cứ cân nhắc hết tư tưởng này đến tư tưởng khác để sao cho xuất niệm của mình được thuần chính nhất. Nhưng cũng nhiều lúc cảm thấy rằng, chỉ khi nào không còn suy nghĩ, không còn tư tưởng gì nữa thì mới không còn chấp trước. Lúc này tôi mới hiểu được nội hàm rộng lớn của lời Sư phụ giảng: “Luyện công cần [coi] trọng đức; khi chúng ta luyện công, chư vị không nghĩ việc tốt, thì cũng không thể nghĩ việc xấu; tốt nhất là đừng nghĩ gì hết.” (Bài giảng thứ năm - Chuyển Pháp Luân)
Theo thiển ngộ cá nhân, tất cả mọi sự mọi việc đến với người tu luyện đều là khảo nghiệm. Mỗi khi khảo nghiệm đến, luôn tồn tại các xung đột mâu thuẫn, chúng ta có thể hướng nội tìm theo các phương diện như đã trình bày ở mục 1. Trong mục này, xin được trình bày chi tiết cụ thể hơn về hướng nội tìm trong các mâu thuẫn nội tại thông qua một số phương diện vượt quan khảo nghiệm.
a. Hướng nội trong khảo nghiệm nghiệp bệnh
Trong quá trình tu luyện chúng ta ít nhiều đều trải qua khảo nghiệm về nghiệp bệnh. Bởi phần lớn chúng ta có mục đích ban đầu đến với Pháp là vì để chữa bệnh. Theo thiển ngộ cá nhân, khảo nghiệm nghiệp bệnh vừa là quá trính thanh lọc cơ thể, vừa là để xem tín tâm tu luyện của mỗi học viên như thế nào. Tuy nhiên, đối với các học viên mới, hoặc các học viên chưa có tín tâm tròn đầy, thì khi gặp khảo nghiệm nghiệp bệnh thường tỏ ra lúng túng. Họ thường đặt ra một số vấn đề là: có nên đi bác sĩ kiểm tra không?; có uống thuốc được không?; hay tôi cũng đã chuyên cần học Pháp, luyện công nhưng tại sao vẫn không khỏi, v.v..
Hướng nội tìm khi vượt quan khảo nghiệm này có thể xem xét ở một số phương diện sau.
Phương diện thứ nhất: Chúng ta có xem đó là bệnh hay không? Nếu xem đó là bệnh, thì khi đó tâm tính chúng ta đang ở chỗ người thường, chưa phải là người tu luyện. Có nhiều đồng tu bề mặt thì không xem đó là bệnh, nhưng từ sâu bên trong tâm bệnh vẫn còn. Ví như có những học viên trước khi bước vào tu luyện đã mắc bệnh gì đó, sau khi bước vào tu luyện mặc dù đã được thanh lý nghiệp bệnh, nhưng vẫn còn dự trữ thuốc trong nhà để phòng ngừa, hoặc vẫn còn đi khám định kỳ tại bệnh viện và còn xin thuốc mang về nhà… Những trường hợp như thế thường nghiệp bệnh kéo dài.
Sư phụ giảng:
“Khi chư vị cho rằng có bệnh, như thế có thể dẫn đến mắc bệnh. Bởi vì khi mà chư vị cho rằng nó có bệnh, thì tâm tính của chư vị cũng cao như người thường. Luyện công và tu luyện chân chính, đặc biệt là trong trạng thái [điều kiện] này, không [thể] dẫn đến mắc bệnh.” (Bài giảng thứ sáu - Chuyển Pháp Luân)
Phương diện thứ hai: Không xem đó là bệnh, mà biết rằng đây là quá trình thanh lọc cơ thể, tiêu trừ nghiệp bệnh trong tu luyện. Biết là thanh lọc cơ thể, tiêu trừ nghiệp bệnh nhưng vì sao vẫn còn tâm lo lắng? Đó chính là tâm bệnh vẫn còn, chấp trước vẫn còn, hoặc tín tâm tu luyện chưa được tròn đầy. Có một số đồng tu thường hỏi tôi khi gặp khảo nghiệm nghiệp bệnh. Sau khi chia sẻ ở một số phương diện để giúp đồng tu hướng nội tìm, thì có nhiều người nói rằng, cũng đã tìm kỹ rồi nhưng không phát hiện vấn đề ở đâu cả. Khi đó tôi chia sẻ rằng, việc đi hỏi người khác như thế đã thể hiện là trong tâm còn có sự lo lắng, có lo lắng thì mới hỏi. Điều đó có nghĩa là mình vẫn còn thiếu sót. Cũng có nhiều đồng tu chia sẻ là đã cố gắng luyện công nhiều hơn, học Pháp nhiều hơn nhưng tình trạng mãi cũng không hết. Trong trường hợp này chúng ta thử đặt ra câu hỏi: Mục đích của việc luyện công nhiều hơn, học Pháp nhiều hơn là gì? Khi trả lời được câu hỏi này thì chúng ta cũng có thể thấy được thiếu sót của mình. Tại sao khi bình thường ta không luyện công nhiều hơn, học Pháp nhiều hơn mà đến khi xảy ra vấn đề mới thực hiện. Phải chăng là trong tâm vẫn lo lắng về nó, muốn nó nhanh hết nên mới học Pháp luyện công nhiều hơn. Đây cũng là một phương diện để tìm thiếu sót của bản thân trong khảo nghiệm nghiệp bệnh.
Phương diện thứ ba: Từ những quan niệm của người thường chưa buông bỏ mà dẫn đến mắc bệnh. Trước khi chưa tu luyện chúng ta thường có nhiều quan niệm được tích luỹ từ những kinh nghiệm của cuộc sống. Là người tu luyện, chúng ta cần thay đổi từ tận gốc rễ các quan niệm này, và cần dùng Pháp để suy xét mọi sự, mọi việc. Tuy nhiên, có nhiều học viên vẫn còn mang nhiều quan niệm, từ đó tạo thành những tình huống như là đang cầu nó vậy. Địa phương tôi có vài trường hợp như thế. Có một học viên vào ngày mồng 1 tết, tiết trời nắng ráo, học viên này liền nói: “Mồng 1 tết mà trời nắng thế này thì ra tết nhiều người bị bệnh lắm đây.” Và thế là ngày 3 tết vị học viên này mắc bệnh, kéo dài một tháng, khi nhận ra được chấp trước này thì tình trạng bệnh mới hết. Có một học viên khác, khi thấy một người quen bị ho, vị học viên này liền bày cho người đó là dùng lá này, quả kia, cách làm như thế như thế, uống vào sẽ khỏi. Sau đó còn nói thêm một câu: “Trước đây tôi bị ho và cũng làm như thế mà khỏi”. Sau đó, vị học viên này về nhà và bắt đầu lên cơn ho, kéo dài gần một tuần không khỏi. Khi được các đồng tu chia sẻ, nhận ra được chỗ thiếu sót, thì tình trạng ho cũng chấm dứt.
b. Hướng nội trong khảo nghiệm tâm tính.
Đề cao tâm tính là căn bản trong con đường tu luyện. Dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, thì hết thảy những gì người tu luyện gặp phải cũng chỉ nhắm vào một mục tiêu là tu bỏ chấp trước để đề cao tâm tính.
Sư phụ giảng:
“Tất cả các tâm chấp trước, miễn là chư vị có, thì cần phải vứt bỏ tại các chủng hoàn cảnh [khác nhau]. [Sẽ] làm cho chư vị trượt ngã, từ đó mà ngộ Đạo; tu luyện là như thế.” (Bài giảng thứ tư - Chuyển Pháp Luân)
Theo thiển ngộ cá nhân, mỗi khi gặp phải một vấn đề nào, một sự việc nào đó nảy sinh, thì đó đều là cơ hội để chúng ta đề cao. Ở các phương diện xung đột mâu thuẫn, hay khảo nghiệm nghiệp bệnh,… nó cũng bao gồm trong đó phương diện khảo nghiệm tâm tính; phương diện này chúng ta đã bàn luận ở các phần trước. Phần này chúng ta sẽ đi xem xét ở một phương diện khác, đó là những ý niệm, việc làm đi kèm khi gặp vấn đề, sự việc nảy sinh.
Có chuyện thế này, con dâu của một đồng tu thường can nhiễu đến việc tu luyện của bà, tỏ ra rất bất kính và hỗn láo. Bà biết mình là người tu luyện nên thường nhẫn nhịn, không nổi giận hay la mắng gì cô con dâu cả. Nhưng bà lại đi kể chuyện cô con dâu cho các đồng tu nghe, hoặc cho hàng xóm nghe. Không chỉ một lần, mà rất nhiều lần tôi nghe bà kể chuyện về cô con dâu. Bề mặt thì là để chia sẻ kinh nghiệm tu luyện của mình cùng các đồng tu, thể hiện mình đã tu Nhẫn như thế nào. Nhưng ẩn sâu trong đó còn có nhiều chấp trước, và nhiều điều chưa thực sự dựa trên Pháp để đối đãi. Tôi chia sẻ với bà rằng: “Con dâu cô làm những việc như thế đều là để tạo cơ hội cho cô đề cao. Tuy cô đã tu Nhẫn được ở một phương diện nào đó, nhưng thật sự sâu trong tâm thì cô chưa thật sự được thoải mái, vui vẻ. Điều đó thể hiện ở việc cô vẫn còn để tâm và chia sẻ với các đồng tu mỗi khi gặp nhau. Hơn nữa, việc cô kể chuyện con dâu cho mọi người nghe, cả những người không tu luyện cô cũng kể, thì phương diện tu khẩu chưa thực hiện được tốt. Ngoài ra, sau khi mọi người nghe chuyện về cô ấy, họ sẽ có những suy nghĩ xấu về cô ấy, uy tín của cô ấy giữa xã hội bị giảm xuống, những khó khăn trong công việc, cuộc sống của cô ấy cũng bị ảnh hưởng,… những vấn đề đó đều từ cô mà phát sinh, như thế cô cũng sẽ bị tổn đức. Phương diện thủ đức của cô như thế là cũng chưa thực hiện được tốt.” Sau khi được chia sẻ, kể từ đó bà không còn nhắc đến chuyện con dâu nữa, những mâu thuẫn cũng tự mất và thái độ của cô con dâu cũng thay đổi tốt hẳn lên.
Trong quá trình tu luyện, mỗi khi phát sinh một sự việc, hay mỗi khi vượt quan khảo nghiệm va chạm tâm tính,… chúng ta thường có xu hướng chia sẻ giữa cộng đồng tu luyện. Tuy nhiên, nhiều khi từ việc chia sẻ này lại nảy sinh các vấn đề khác có thể làm ảnh hưởng đến con đường tu luyện của bản thân cũng như của người khác. Trong tu luyện của bản thân, mỗi khi tôi muốn chia sẻ một sự việc, câu chuyện nào đó thì tôi thường cân nhắc một số phương diện như: việc chia sẻ của mình với mục đích gì? Có thể giúp cho các đồng tu đề cao tâm tính hay tăng thêm tín tâm tu luyện hay không? Có tác dụng trong việc giảng chân tướng cứu độ chúng sinh không? Có ảnh hưởng đến người khác không?,… và tôi thường chỉ chú trọng vào nội dung câu chuyện chứ không chia sẻ câu chuyện đó là của cụ thể người nào, danh tính là gì,… Bởi khi tôi hướng nội một cách sâu sắc, thì những chia sẻ của mình nếu không cân nhắc kỹ lưỡng có thể sẽ ảnh hưởng khá lớn.
Có một học viên ở địa phương thường bị chồng cản trở trong việc tu luyện, ông ấy thường xuyên nhục mạ, đánh đập bà mỗi khi bà đi học Pháp, luyện công về; nhiều lần ông vứt sách của bà, cũng có lần ông đốt sách để bà không tu luyện nữa,… Một thời gian dài bà cũng không vượt qua được quan này. Bà thường xuyên chia sẻ chuyện về chồng mình cho các bạn đồng tu, mỗi lúc có cơ hội gặp nhau bà lại kể dạo này ông ấy thế này, thế này. Bà kể nhiều đến nỗi mà hầu hết các học viên ở địa phương đều sinh tâm oán ghét ông ấy. Nhiều học viên trước đây thường hay lui tới nhà bà rồi cũng không đến nữa vì không muốn nhìn thấy mặt ông ấy. Có học viên còn khuyên bà nên ly dị chồng. Rất nhiều nhân tâm, rất nhiều tình huống xảy ra ở địa phương liên quan đến câu chuyện này. Sau này, khi được các đồng tu có kinh nghiệm chia sẻ, bà mới không còn kể về chồng nữa, từ đó mọi việc mới ổn định trở lại, đến bây giờ ông ấy cũng đã bắt đầu bước vào tu luyện.
Môi trường tu luyện trong phối hợp hạng mục, theo thể ngộ cá nhân, là một môi rất đặc biệt, và có rất nhiều cơ hội để tu luyện đề cao. Trong quá trình phối hợp hạng mục, bất kỳ là hạng mục nào, đều không tránh khỏi việc phát sinh các vấn đề khó khăn, va chạm,… Hướng nội trong trường hợp này có thể cân nhắc ở hai phương diện.
Phương diện tu luyện cá nhân, những va chạm giữa các thành viên tham gia hạng mục. Phối hợp hạng mục cũng là một môi trường tu luyện, nên khi xảy ra vấn đề thì đó cũng là cơ hội để cao tâm tính. Khi phát sinh vấn đề, nếu xét ở góc độ là đồng tu với nhau, thì xem đó là mâu thuẫn với người tu luyện để hướng nội. Ở một góc độ khác là giữa người điều phối và các thành viên. Hạng mục là có người điều phối, có những tiêu chí của hạng mục trong phối hợp. Vì vậy, khi phát sinh sự việc giữa người điều phối và các thành viên, thì cách hướng nội nên là, người điều phối cần xem cách điều phối, cách phân công công việc của mình đã hợp lý chưa; với các thành viên tham gia hạng mục thì cần xem mình đã nghiêm túc thực hiện các tiêu chí của hạng mục chưa. Mỗi người đều đi tìm thiếu sót của bản thân để tu sửa thì sự việc sẽ được giải quyết. Ngược lại, nếu không thấy được thiếu sót của bản thân mình, mà chỉ thấy thiếu sót của người khác, thì sự việc sẽ trở nên càng phức tạp, càng không thể giải quyết.
Tôi cũng có tham gia một số hạng mục. Trong quá trình phối hợp, tôi luôn tìm hiểu kỹ những tiêu chí của hạng mục, và cố gắng thực hiện đúng theo các tiêu chí một cách nghiêm túc. Cũng có những lúc cảm thấy chưa hài lòng với cách làm của người điều phối, thì tôi chia sẻ theo ý của mình với người điều phối để làm tham khảo. Khi người điều phối đã quyết định cách làm thì tôi phối hợp một cách vô điều kiện, vì tôi hiểu người điều phối có cái lý của người điều phối và chịu trách nhiệm cho toàn bộ hạng mục đó. Đối với những hạng mục mà tôi làm điều phối, thì mỗi khi có va chạm với các thành viên trong phối hợp, tôi thường tìm xem cách điều phối, cách phân phối công việc, và cách hướng dẫn thực hiện hạng mục có chỗ nào chưa tốt hay không.
Trong phối hợp hạng mục, khi phát sinh sự việc, va chạm với nhau thì ai cũng nói rằng cần phải “phối hợp vô điều kiện”. Tuy nhiên, thường chúng ta chỉ đi theo chiều là yêu cầu mọi người phối hợp vô điều kiện với mình, và chưa thực sự suy xét đến chiều mình cần phối hợp vô điều kiện với mọi người. Theo thể ngộ cá nhân, “phối hợp vô điều kiện” là phối hợp một cách thông suốt giữa các thành viên với nhau, giữa người điều phối với các thành viên và ngược lại. Mỗi người đều cần phải “phối hợp vô điều kiện” với người khác trước khi yêu cầu người khác “phối hợp vô điều kiện” với mình.
Phương diện triển khai hạng mục. Hạng mục Đại Pháp là để giảng chân tướng cứu độ chúng sinh. Khi phát sinh những sự việc, những va chạm cho dù là từ bên trong các thành viên, hay từ môi trường bên ngoài tác động vào, theo thiển ý cá nhân thì đều là do hạng mục còn có chỗ thiếu sót. Có thể là do sự phối hợp giữa các thành viên đang gặp vấn đề, cũng có thể là cách triển khai có những điểm chưa phù hợp. Khi xảy ra những tác động từ phía bên ngoài, chúng ta thường có xu huống là xem ngay những tác động đó là sự can nhiễu của người này, lực lượng kia. Mà chưa thực sự cân nhắc xem hạng mục đang thực hiện thiếu sót ở chỗ nào. Theo thiển ý cá nhân, việc thực hiện các hạng mục cũng giống như con đường đi của một người tu luyện vậy. Mỗi thời, mỗi chặng đều có tiêu chuẩn cho hạng mục cũng như cho các thành viên. Qua mỗi chặng đường thì tiêu chuẩn đều cần nâng cao lên tương ứng với hình thế Chính Pháp, cũng như theo yêu cầu của chúng sinh cần được cứu độ. Vì thế, mỗi khi phát sinh sự việc, tác động vào hạng mục, thì điều cần thiết là xem xét xem các tiêu chuẩn của hạng mục, và tầng thứ tu luyện cá nhân của các thành viên đã được nâng lên tương ứng hay chưa.
Ví như trong trong các hạng mục nghệ thuật, có một số địa phương khi bắt đầu triển khai, sau khi tập luyện được một thời gian thì bắt đầu tham gia biểu diễn ở xã hội. Một vài buổi diễn ban đầu có kết quả khá khả quan. Sau đó bắt đầu có những tác động từ bên ngoài làm mất đi môi trường biểu diễn. Có nơi còn không có điểm để tập luyện nữa. Địa phương tôi cũng có gặp tình huống như thế. Chúng ta có thể hướng nội ở một vài phương diện khi triển khai hạng mục như: có sự nóng vội khi tham gia biểu diễn khi tính nghệ thuật chưa có, tập luyện chưa thành thạo hay không? có vì cái được nhỏ trước mắt mà chưa tính được kế hoạch lâu dài hay không?; sự phối hợp giữa các thành viên trong hạng mục có gặp vấn đề gì hay không? hay đã có sự phù hợp tối đa với xã hội người thường hay chưa?...
Khi có những va chạm, xung đột mâu thuẫn xảy ra, nếu chúng ta không tự bản thân hướng nội để giải quyết vấn đề, thì chúng ta thường hay chia sẻ với các bạn đồng tu để nhờ các bạn chia sẻ góp ý. Tuy nhiên phần nhiều chia sẻ đều cho mình là hợp lý, dựa theo Pháp, còn người khác thì như thế này thế kia. Nếu chúng ta là người được nghe chia sẻ, được nhờ góp ý, thì chúng ta nên làm thế nào?
Theo thể ngộ và kinh nghiệm của bản thân, theo phương diện hướng nội thì nếu đang chia sẻ với người nào thì tôi thường giúp đồng tu tìm ra thiếu sót của người đó, tìm những cái đúng của người kia. Và ngược lại, khi chia sẻ với người kia thì cũng giúp họ tìm ra chỗ thiếu sót của mình, và tìm cái đúng của người nọ. Chúng ta tránh tình huống, khi một người chia sẻ về sự việc va chạm với người khác, thì chúng ta lại cùng họ tìm lỗi sai ở người kia, như thế chằng khác nào đổ thêm dầu vào lửa, làm tăng thêm gián cách khiến mâu thuẫn không thể giải quyết.
Cũng có những trường hợp không phải va chạm mâu thuẫn của người chia sẻ, mà là kể về các hiện tượng ở địa phương, tin đồn về các học viên,… với những tình huống như thế, chúng ta cần xét mục đích của việc kể những sự việc này là gì? Và cũng tránh tình huống là sau khi nghe thì cùng nhau đi bàn luận điểm thiếu sót của nhân vật trong câu chuyện.
Có một lần, một học viên ở địa phương nọ chia sẻ với tôi rằng, các học viên ở địa phương anh ấy nhân tâm còn nhiều, biểu hiện ra rất căng thẳng, nào là nóng giận, lời nói thế này thế khác. Tôi mỉm cười và nói: “Họ biểu hiện ra như thế là đúng mà”. Anh ấy hỏi, vì sao lại đúng? Tôi trả lời rằng: “Vì họ còn chấp trước, nên cần biểu hiện ra để họ nhìn thấy để mà tu. Như thế việc họ có những biểu hiện như nóng giận, nói lời khó nghe như thế là đúng rồi còn gì.”
Theo thể ngộ cá nhân, ở mỗi sự việc đều có hai mặt chính - phản, nếu chúng ta nhìn theo hướng “chính” thì sẽ thấy được những điều phù hợp với Pháp, còn nếu nhìn ở phương diện “phản” thì sẽ thấy cái sai của người nọ người kia.
Ở một phương diện khác, là người được nghe, chứng kiến mâu thuẫn đó thì tự bản thân mình cũng cần hướng nội xem mình có những chấp trước hay không. Sư phụ đã giảng:
“Trong giảng Pháp tôi đã bảo mọi người rằng, hai người mà phát sinh mâu thuẫn, người thứ ba chứng kiến cũng cần phải tự ngẫm xem: “Ơ kìa, giữa họ phát sinh mâu thuẫn, sao lại để mình nhìn thấy? Có phải là mình có tâm gì đó chăng? Có phải là mình cũng có vấn đề như vậy chăng?” (Giảng Pháp tại Pháp hội Australia [1999])
Trên đây là chút thể ngộ cá nhân về một số phương diện hướng nội tìm chấp trước của bản thân. Còn rất rất nhiều phương diện mà tôi chỉ mới có ý tưởng nhưng chưa biết nên thể hiện bằng lời như thế nào. Bài viết còn nhiều hạn chế về nhận thức cũng như thể ngộ trong Pháp. Mong các đồng tu thiện tâm chia sẻ góp ý và chỉ ra những chỗ chưa phù hợp.
Cảm ơn các bạn đồng tu! Chúc các bạn đồng tu vững bước tinh tấn trên chặng đường cuối cùng này!
Hợp thập!
Tam Bất Dịch
7/2017
*****************
Trong các bài về hướng nội tôi đều viết cụm từ “bài trừ chấp trước”, “nhìn thấy chấp trước thì bài trừ nó đi” v.v… Hướng nội để tìm ra chấp trước là một chuyện, buông bỏ hay bài trừ nó đi lại là một chuyện khác. Bài viết này xin chia sẻ về cách bài trừ chấp trước của cá nhân tôi.
Bài viết dựa trên thể ngộ cá nhân tại tầng thứ hữu hạn. Nếu có gì sai sót, rất mong được các đồng tu từ bi góp ý.
Trong Kinh văn Sư Phụ từng trả lời một học viên về cách bài trừ chấp trước. Sư Phụ nói không nguyên văn rằng: “Chư vị phải tách biệt mình khỏi nó, coi chấp trước không phải là bản thân mình”. Đây là Sư Phụ nói ở tầng khái quát nhất, còn đi vào thực tế chi tiết thì có lẽ mỗi người sẽ có cách thực hiện khác nhau. Ở đây chỉ nói về cách làm của tôi, và chắc chắn đó không phải là cách duy nhất.
Trước khi tu luyện tôi là người có tâm tật đố rất mạnh. Sau khi tu luyện, tâm tật đố đó không mất đi mà ngược lại còn thể hiện ra mạnh mẽ hơn. Tôi thường cảm thấy hả hê khi nghe kể điều không tốt về người khác. Ví dụ khi mẹ tôi kể chuyện: con trai bác hàng xóm nghiện ma túy, vừa bị bắt đi trại rồi đấy. Niệm đầu tiên của tôi sẽ là có chút hoan hỉ trong tâm đã, xong sau đó tôi mới nghĩ tới hoàn cảnh khổ sở của gia đình bác hàng xóm, sau đó mới xuất hiện sự cảm thông, thương cảm. Niệm đầu tiên này chỉ thoáng qua trong giây lát, đến rồi đi ngay, nhưng nó chính là một tâm tật đố rất mạnh. Kể cả từ trước và sau khi mới tu luyện, tôi đều biết mình có cái tâm đó, tôi không thích nó chút nào, nhưng cứ nghe về tai họa của người khác là cái tâm tật đố này nó lại xuất hiện, dù rằng trước đó tôi đã dặn mình không được nghĩ như thế.
Mỗi tâm chấp trước giống như phản xạ có điều kiện vậy, khi điều kiện hợp đủ là nó sẽ lộ diện. Cụ thể ở đây: khi nghe về điều xấu của người khác là tâm hả hê kia lại xuất hiện. Sau khi xác định chấp trước kia cụ thể là gì, tôi đứng từ trong Pháp mà phủ định nó. Tôi quả quyết: hả hê vì tai họa của người khác là một tâm tật đố xấu xa, đáng khinh bỉ, mình cần phải tiêu diệt nó, Sư Phụ cũng đã giảng rất cụ thể trong Chuyển Pháp Luân rồi. Một niệm ấy tôi ghi khắc vào trong tư tưởng. Xác định được thời gian cụ thể tâm chấp trước thường xuất hiện, tôi lưu thêm dữ kiện đó vào trong tâm. Như vậy là xong phần chuẩn bị. Tuy nhiên chừng đó chưa thể bài trừ tâm tật đố kia ngay lập tức. Thế nhưng tới lần sau, khi nghe về tai nạn, điều xấu của người khác, sự việc sẽ có sự thay đổi. Vào khoảnh khắc tâm tật đố vừa nổi lên, còn chưa kịp làm tôi hả hê, chính niệm mà lần trước tôi đã ghi khắc trong tâm cũng đồng thời xuất hiện, niệm đó giống như một chiếc lồng chụp xuống chấp trước kia, làm nó không thể khởi thêm được tác dụng. Sau đó chấp trước sẽ lặn mất, vậy là tôi đã thành công lần một. Những lần sau nghe kể xấu về người khác, chấp trước kia sẽ lại lộ diện, nó sẽ lại bị tóm chặt. Sau vài lần như vậy, tôi thấy nó không còn xuất hiện trở lại nữa, lúc đó tôi có thể khẳng định, tâm tật đố “hả hê vì tai họa của người khác” đã bị tiêu diệt hoàn toàn.
Phương pháp này tôi đã sử dụng và thành công trong rất nhiều quan khác nhau. Điều quan trọng nhất là chúng ta cần phải xác định thật cụ thể tâm chấp trước, chỉ mặt đặt tên cho nó, xác nhận thời gian và địa điểm, điều kiện khi nó xuất hiện. Một niệm để khắc ghi vào trong tâm cần phải cực kỳ chi tiết như vậy thì lần sau mới có thể phát huy tác dụng. Sư Phụ giảng rằng buông bỏ chấp trước cũng giống như bóc hành vậy, bóc hết lớp này đến lớp khác. Tâm tật đố nó có vô vàn khía cạnh khác nhau, đó là mỗi lớp vỏ hành và chúng ta cần phải bóc từ từ, từ từ, bóc hết lớp này sẽ lại thấy lớp khác. Sau khi hết hả hê về tai họa của người khác, tôi lại tiếp tục bất bình khi thấy người khác hơn mình, đó lại là một quan tiếp theo, tôi lại cần phải hướng nội cụ thể như ở quan trước đó. Cứ tiếp tục như vậy, mãi cho đến khi bóc đến lõi củ hành thì mới thôi.
Con gái tôi rất bướng bỉnh và cợt nhả, mỗi sáng đánh răng cho nó đều làm tôi phát cáu. Nhưng mỗi lần cáu lên xong tôi đều hướng nội xem cụ thể mình đã cáu vì hành động gì của nó. Có hôm tôi lấy đầy cốc nước đưa nó súc miệng, nó cầm cốc đổ luôn đi, tôi cáu. Có hôm tôi lấy kem đánh răng vào bàn chải rồi đưa nó, nó quăng quăng làm kem bay luôn xuống đất, tôi cáu. Có hôm tôi cầm bàn chải đánh răng hàm cho nó, nó cứ đẩy tay tôi ra, bốn năm lần liên tiếp như vậy, tôi cáu v.v… Con gái tôi có 100 cách khác nhau khiến tôi phát cáu, tương ứng như vậy tôi cũng phải hướng nội đủ 100 lần, cho tới khi tôi không thể phát cáu được vì bất cứ lý do gì nữa, tự nhiên việc đánh răng mỗi sáng sẽ trở thành nhẹ nhàng. Hướng nội thấy “không nhẫn được với con” là chưa đủ, phải là không nhẫn được vì lý do nào, hành động cụ thể nào của con.
Thời gian đầu, khi mà chính niệm chưa đủ mạnh, tôi cần phải ngồi thiền, tĩnh tâm mới có thể hướng nội và xuất ra niệm bài trừ chấp trước. Sau này khi đã quen dùng phương pháp rồi, chính niệm của tôi cũng mạnh lên, không cần ngồi thiền hay tĩnh tâm, tôi vẫn có thể bài trừ chấp trước.
Tóm tắt lại: sau khi có mâu thuẫn và hướng nội, tìm ra chấp trước, việc đầu tiên tôi làm là xác định nó là chấp trước gì, phân nó vào danh mục cụ thể (tật đố, tranh đấu hay hiển thị v.v…), tiếp đó tôi tìm trong Pháp của Sư Phụ đoạn có liên quan đến chấp trước đó để phủ nhận nó, quả quyết nó là sai trái. Xong sau đó tôi ghi nhớ thêm thời gian, địa điểm, điều kiện dẫn khởi chấp trước đó. Dữ kiện càng cụ thể càng tốt, sau đó ghi nhớ tất cả thật kỹ. Nếu chấp trước chưa bị tiêu diệt ngay mà còn tiếp tục xuất hiện lần sau thì nó cũng sẽ bị kìm hãm và yếu đi nhiều, sẽ dần dần bị tiêu diệt hoàn toàn.
Để hướng nội và bài trừ chấp trước thành công, việc quan trọng nhất vẫn là học Pháp cho tốt. Ngoài ra chúng ta cần phải xây dựng một thói quen hướng nội liên tục. Nếu như ngày nào cũng học Pháp, luyện công chăm chỉ, nhưng khi gặp mâu thuẫn vẫn hướng ngoại, chỉ nhìn thấy lỗi của đối phương thì chắc chắn tâm tính không thể đề cao, công cũng không thể tăng lên. Sư Phụ giảng nguyên nhân của việc không tăng công, một là không biết Pháp tại cao tầng, hai là không coi trọng tâm tính. Đối với cá nhân tôi, coi trọng tâm tính chính là hướng nội và bài trừ chấp trước.
Cuối cùng xin chúc tất cả các đồng tu luôn luôn tinh tấn.
Một số chia sẻ của đồng tu về vấn đề sát sinh:
https://chanhkien.org/2008/11/sat-sinh-va-tao-nghiep-tren-con-duong-tu-luyen.html
http://vn.minghui.org/news/69494-doi-dai-nghiem-tuc-voi-van-de-khong-sat-sinh.html
(1) Con người trong các hoàn cảnh công tác khác nhau, tồn tại các vấn đề sát sinh khác nhau. Sự cân bằng các sinh mệnh cũng tồn tại các hình thức biểu hiện khác nhau, làm người tu luyện thì trước hết cần buông hết tất cả chấp trước, phù hợp với trạng thái xã hội người thường, cũng là duy hộ một tầng biểu hiện này của Pháp. Sự nghiệp của nhân loại nếu đều không ai làm, thế thì tầng Pháp này sẽ không tồn tại.
(2) Sinh mệnh trong Pháp sẽ tự nhiên tồn vong, vũ trụ có thành-trụ-hoại, con người có sinh-lão-bệnh-tử, sự cân bằng các sinh mệnh cũng đồng như thế có tồn tại sự tồn vong phi tự nhiên. Trong Nhẫn có xả, mà xả tận lại là Pháp Lý cao hơn của vô lậu.
Thể ngộ của một ĐT trong đoạn Pháp Sư Phụ giảng ở trên.
Đối với người Tu Luyện thì cần viên dung với Pháp, trong tầng thứ nhân loại này cũng là một tầng thứ của Pháp, thì cần duy hộ trạng thái sinh hoạt bình thường. “Nhưng chúng ta không được vô cớ sát hại sinh linh” - trích Chuyển Pháp Luân -
Còn đối với một người thường thì họ sát sinh là để duy hộ tầng thứ của nhân loại. Họ giết các loài động vật vì trong động vật có Protein để cung cấp cho con người, nuôi sống con người.
Sư Phụ giảng ở trên: “ Sinh mệnh trong Pháp sẽ tự nhiên tồn vong, vũ trụ có thành-trụ-hoại, con người có sinh-lão-bệnh-tử ”, theo thể ngộ của ĐT thì là sự tồn tại và tử vong. Con người sát sinh sẽ dẫn đến vấn đề tạo nghiệp.
Sai lầm khi dùng quan niệm của mình để học Pháp
Nhiều người nghe rằng Chuyển Pháp Luân có nội hàm rất thâm sâu nên cố gắng đọc và đào sâu vào từng chữ từng chữ xem ý nghĩa và gì, nội hàm ra sao và càng cố hiểu nội hàm thì cảm thấy như đi vào ngõ cụt và không thấy nội hàm triển hiện.
Một số người đã hình thành thói quen: lấy tri thức nhỏ bé của mình để đặt định điều này là phải thế này thế kia nên vô hình chung họ đã đặt định nhiều điều trong Pháp. Thông thường tri thức mà chúng ta có được đa phần hình thành từ những gì chúng ta đọc, học và trải nghiệm từ đấy hình thành những quan niệm và sau đó lấy quan niệm đấy để xem xét các việc chưa kể hiện nay rất nhiều kiến thức mà chúng ta được học hoá ra lại là sai ( nhiều điều chúng ta chưa cập nhật nên chưa biết ) và chúng ta lại lấy cái sai đấy để làm chuẩn. Cái chuẩn ấy ngay ban đầu đã bị sai lệch vậy những điều suy luận sau đấy theo chuẩn này sẽ thế nào? Rất nhiều tri thức hiện nay cũng đi theo con đường ấy...lấy những định nghĩa trước đây làm nền tảng, nếu có những điều khác với nền tảng ban đầu là đả phá hoặc không tin và nếu cứ theo cách như thế thì không thể có sự đột phá về mặt tri thức. Nếu học Pháp mà cứ ôm giữ các quan niệm như thế liệu có thể hiểu được nội hàm vô biên của Đại Pháp?
Có một câu chuyện một đứa trẻ lớp 1 khi được đưa bài toán lớp 12 để giải thì nó lập tức phản ứng và bảo rằng bài toán ấy bị sai đề, rất đơn giản là vì nó chưa thấy trước đây bao giờ tuy nhiên sau này khi đã học đến lớp 12 thì nó mới biết là mình đã sai. Con người chỉ có thể giải bài toán lớp 12 khi mình đã đạt đến “cảnh giới” toán lớp 12, nếu đang ở “cảnh giới” lớp 1, bằng ý chí chủ quan, bằng các tri thức của lớp 1 liệu có thể giải được ( có muốn cũng không thể trừ phi từ từ học đến lớp 12...điều này đòi hỏi 1 thời gian dài và quá trình nỗ lực học từng năm từng năm )
Khi đọc cuốn sách Chuyển Pháp Luân có những điều vượt rất xa khoa học ngày nay và không có cuốn sách nào đề cập tới, có những tri thức như những câu chuyện viễn tưởng ngoài cả sự tưởng tượng nên một số người bị xung kích rất mạnh, 1 số dùng quan niệm cố hữu của mình để phân tích phân tích...càng phân tích thì càng vào ngõ cụt giống như bắt con voi chui qua “lỗ kim” kiến thức của mình.
Chỉ khi buông bỏ hết các quan niệm, không đào sâu vào từng chữ, không truy cầu cần hiểu nội hàm bên trong mà đặt công phu vào đọc sách, tập trung vào tu tâm tính của mình, đề cao cảnh giới tư tưởng thì nội hàm càng ngày càng triển hiện tuy nhiên điều này cũng không thể đốt cháy giai đoạn mà là cả một quá trình và điều ấy phụ thuộc rất lớn vào việc đặt công phu tu tâm tính và học Pháp. ( tất nhiên nếu học Pháp mà không để tâm, các chữ bị mê mờ trôi mất mà chẳng biết đọc gì thì cũng không được, cần tập trung tinh thần, tỉnh táo minh bạch khi học Pháp )
Chỉ khi bạn buông bỏ các quan niệm cố hữu của mình, tĩnh tâm đọc cuốn Thiên Thư Chuyển Pháp Luân thì rất nhiều điều chân thực triển hiện, chấn động thân tâm và sẽ rất kỳ lạ là mỗi lần đọc lại lại được khai mở thêm, cảnh giới được nâng cao lên...và nếu muốn đề cao hơn nữa lại buông bỏ nội hàm ấy và đạt trạng thái vô vi khi học Pháp thì lại đề cao lên và lại ngộ thêm về nội hàm mới...
Nội hàm của Chuyển Pháp Luân là bác đại tinh thâm là Pháp xuyên suốt chỉ đạo người tu luyện tại các tầng thứ khác nhau, là điều vượt rất xa khỏi không gian và thời gian của nhân loại, càng đọc càng tu thì nội hàm càng triển hiện...là Thiên Pháp vô cùng trân quý nhưng không phải ai cũng đủ phúc phận để cảm nhận và đắc được
Chỉ cần bạn cố gắng hết sức đọc hết 3 lượt Chuyển Pháp Luân thì có lẽ sách sẽ thành một bảo vật mà bạn sẽ mang theo mọi nơi mọi lúc suốt cả cuộc đời.
Vạn sự do duyên, có lẽ đến lúc bạn xứng đáng nhận Thiên Thư, xin hãy trân quý đừng vì dễ được mà đánh mất cơ duyên và đó là điều tuyệt vời nhất của sinh mệnh mình chờ từ vạn cổ.
Xin hãy trân quý Cơ Duyên Vạn Cổ.
(bài viết theo thể ngộ hạn hẹp của tác giả, muốn hiểu nội hàm thâm sâu của Pháp chỉ có thể học Pháp, thực tu, đề cao tâm tính)
Nguồn: https://www.facebook.com/Dafa.Great/posts/3429436243948280?__tn__=K-R
Tặng bạn Thiên Pháp “ Chuyển Pháp Luân “ mong rằng bạn đủ duyên để nắm bắt:
Nếu thấy buồn ngủ, bạn hãy nhẩm đoạn Pháp sau trong lúc Phát chính niệm 5 phút đầu thanh lý bản thể:
“trong ý niệm thanh trừ những tư tưởng niệm đầu không tốt trong tư tưởng, nghiệp lực cùng quan niệm không tốt, hoặc những can nhiễu từ bên ngoài. Có suy nghĩ như thế, nghĩ những thứ ấy phải chết, [thì] chúng sẽ bị thanh trừ; 5 phút là có tác dụng.”
(Giảng Pháp tại Pháp hội Canada năm 2001)
Kinh văn: "Giảng Pháp tại Pháp hội các phụ đạo viên ở Trường Xuân [1998]"
Đệ tử: Học xong kinh văn “Đối thoại với Thời Gian”, lý giải về thời gian của các học viên là khác nhau.
Sư phụ: Khác nhau thì khác nhau. Chư vị hễ nghe một việc mới mẻ thì lại khởi chấp trước. Tôi bảo chư vị, rất rất nhiều điều mà chư vị không ý thức tới được ấy đều là Thần, có một số thậm chí thường xuyên được nói tới, mà đều không nghĩ tới [họ là Thần]. Vũ trụ này quá rộng lớn, rất nhiều việc là không thể để con người biết. Chẳng phải thấy buồn ngủ sao? Chư vị hễ đọc sách chư vị liền muốn ngủ, hễ học Pháp chư vị liền mơ màng phải không? Tôi bảo chư vị này, họ chính là Thần ở một tầng trong không gian nhân loại này. Chư vị không xung phá được họ thì chư vị chính là người. Họ cũng không phải cố ý như thế nào đó với chư vị, họ đối với tất cả con người đều như thế mà, do đó con người sẽ có mệt mỏi, sẽ có mơ màng muốn ngủ. Chư vị nếu muốn thoát ly con người, thì chư vị phải xung phá hết, chư vị mới có thể được. Chư vị mà phù hợp theo họ, thì họ bèn nhìn nhận chư vị chính là người.
Cách tôi đã vượt qua cơn buồn ngủ trong khi học Pháp.
Bài viết dựa theo thể ngộ cá nhân tại tầng thứ hữu hạn, nếu có gì chưa đúng mong được các đồng tu từ bi chỉ dẫn.
Buồn ngủ trong khi học Pháp có lẽ là điều mà gần như tất cả chúng ta đều đã, đang hoặc sẽ gặp phải. Tôi có thể phân loại “buồn ngủ” ra thành hai dạng. Một là buồn ngủ khi mới bắt đầu tu luyện, mới đọc Chuyển Pháp Luân những lần đầu tiên. Loại thứ hai là buồn ngủ khi đã tu luyện được một thời gian tương đối, mặc dù khi mới đắc Pháp thì đọc Pháp rất tỉnh táo và tinh tấn.
Buồn ngủ khi mới bắt đầu học Pháp rất mãnh liệt, nhưng là người chân chính thực tu, ai cũng có thể vượt qua. Vì thế trong bài chia sẻ này, tôi sẽ chỉ nói về cái buồn ngủ khi mà chúng ta đã tu luyện tinh tấn được một thời gian nhất định.
Phải khẳng định ngay từ đầu là cái sự "buồn ngủ" này vô cùng đáng ghét. Làm bất kỳ việc gì, từ xem tivi, bấm điện thoại, ngồi máy tính, đọc sách báo v.v… đều tỉnh táo, duy chỉ có học Pháp, chỉ cần một lúc là mí mắt tôi như có đeo hai hòn đá, cố đến mấy cũng không thể mở ra được. Thực sự là như vậy, tôi đã thử nhiều cách: phát chính niệm để thanh trừ “ma ngủ”, ngồi song bàn để đọc sách, quỳ đọc sách, đứng lên đi lại đọc sách, ra ngoài trời lạnh đứng đọc sách, rửa mặt bằng nước nóng và nước lạnh, uống cà phê đặc, thậm chí tự tát bôm bốp vào mặt mình… nhưng tất cả đều chỉ giải quyết được vấn đề một cách tạm thời, chỉ một lát sau là mắt lại díp vào. Tôi cũng thử học Pháp vào những thời điểm khác nhau, nhưng dù là sáng sớm hay tối muộn, kết quả đều tương tự.
Sau này tôi nhận ra rằng những gì tôi làm để chống lại cơn buồn ngủ như ở trên viết, tất cả đều là hướng ngoại mà cầu. Vì sao khi mới đắc Pháp hoặc khi học Pháp tập thể tôi hoàn toàn tỉnh táo mà chả cần bất kỳ phương pháp nào? Sự khác nhau là nằm ở đâu? Phải chăng tâm tính của tôi có vấn đề? Nếu cơn buồn ngủ liên quan tới tâm tính của bản thân thì chắc chắn hướng ngoại không thể giải quyết được vấn đề. Phát chính niệm cũng chỉ có thể thanh trừ tà ác chứ không thể thanh trừ được chấp trước nội tại. Từ khi nhận thức ra điều này, tôi bắt đầu hướng nội mỗi khi cảm thấy buồn ngủ.
Tôi phát hiện ra rằng có một sự khác biệt rõ ràng trong sự nghiêm túc đối với việc học Pháp của tôi, so sánh giữa thời điểm lúc mới đắc Pháp với thời điểm bây giờ. Khi xưa tôi đọc Pháp như nuốt từng câu từng từ, đọc mà chỉ sợ nhanh hết bài, chỉ mong sách dài mãi. Giờ đây tôi đã đọc Chuyển Pháp Luân có lẽ được đôi ba chục lần, cũng đã thấu hiểu được một tầng nội hàm nhất định của Pháp; thế nhưng sự nghiêm túc, thành tâm cầu Pháp đã không còn như thuở ban đầu. Đó chính là sự khác biệt, cũng là nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của những cơn buồn ngủ.
Hướng nội tìm chấp trước giống như bóc hành vậy, đúng là bóc hết từ lớp này đến lớp khác. Mỗi khi cơn buồn ngủ đến, nó đến rất mãnh liệt, nó khiến tôi không thể mở mắt đọc Pháp, tôi liền hướng nội và tìm ra chấp trước, cơn buồn ngủ lập tức biến mất và tôi tỉnh táo như nó chưa từng xuất hiện; những tưởng vậy là êm rồi, nào ngờ vài phút sau lại một cơn buồn ngủ mới tìm đến, lại là một chấp trước khác cần được phát hiện ra. Cứ như vậy kéo dài gần hai tuần, mỗi buổi tối học Pháp với tôi đều là một trận chiến với “con ma ngủ”, có hôm tôi chiến thắng và đọc hết bài giảng, có hôm tôi chịu thua nó và bỏ ngang, cất sách lên giường đắp chăn đi ngủ. Nhưng sau mỗi lần như vậy, tôi đều rút ra cho mình những bài học và đạt được đề cao. Về căn bản đến bây giờ tôi đã không còn thấy buồn ngủ khi học Pháp nữa. Sau đây tôi xin được kể ra cụ thể những chấp trước mà tôi đã tìm ra mỗi lần buồn ngủ và hướng nội tìm.
Tôi thường học Pháp vào buổi tối trước khi phát chính niệm lúc 12h đêm, sau đó đi ngủ. Càng về sau, vì nhiều lý do, thời điểm tôi bắt đầu học Pháp càng muộn, có hôm tới sau 11h tôi mới bắt đầu mở sách; và đương nhiên chừng ấy thời gian không đủ để tôi hoàn thành một bài giảng trước khi phát chính niệm, thế là phát chính niệm xong tôi đánh dấu lại để hôm sau đọc tiếp. Đây chính là chấp trước đầu tiên tôi tìm thấy. Tôi đã xếp việc học Pháp vào thời điểm cuối cùng trong ngày, trước khi đi ngủ. Thật ra học Pháp vào thời điểm nào trong ngày không phải vấn đề, vấn đề nằm ở thái độ của tôi đối với việc học. Nhiều khi bận gì đó hay mải làm gì đó, tôi nghĩ “Thôi lát nữa còn bao nhiêu thời gian mình đọc bấy nhiêu, còn lại tối mai lại đọc tiếp”. Nhiều hôm không còn chút thời gian nào, tôi nhẩm đọc luận ngữ rồi đi ngủ, tạm coi như mình đã học Pháp rồi. Đây là tâm an dật mà tôi cần phải buông bỏ trước nhất. Tâm này tôi tìm ra vào một buổi học Pháp sáng, sau khi quyết định chuyển giờ học Pháp lên sáng sớm. Khi đó tôi buồn ngủ chỉ muốn bỏ sách mà đi ngủ tiếp. Tìm ra chấp trước, lập tức tôi tỉnh táo và có thể tiếp tục đọc sách, đồng thời nó cũng khai sáng cho tôi, tạo tiền đề cho những lần hướng nội tiếp theo.
Một lần khác, khi đang học Pháp vào buổi tối thì cơn buồn ngủ lại tìm tới, hai mắt tôi díp lại, cơ hồ không thể cầm cự nổi nữa. Tôi hướng nội và phát hiện ra thi thoảng trước khi học một bài giảng tôi hay giở xem phần mục lục, xem bài giảng này có bao nhiêu trang, đến trang bao nhiêu là hết. Trong lúc đọc sách, khi hết một trang có khi tôi liếc nhìn xem mình đã đọc đến trang mấy rồi, có lúc tôi còn giở đến cuối bài giảng xem xem mình đọc sắp hết chưa. Hẳn là lúc đó tôi chỉ trông chờ đọc cho hết bài để đi ngủ. Đây rõ ràng là một sự bất kính không hề nhỏ đối với Đại Pháp. Phát hiện ra nó xong thì cơn buồn ngủ kia cũng tan biến luôn, hai mắt tôi lại có thể mở bình thường, không còn tí cảm giác buồn ngủ nào.
Có lần buồn ngủ quá mà hướng nội mãi không có kết quả, tôi bèn lấy khăn mặt ngâm nước nóng và một túi đá chườm để bên cạnh. Cứ mỗi khi bắt đầu buồn ngủ, tôi liền đắp khăn nóng sau đó chườm đá lạnh lên mặt, làm như vậy tôi lại thấy tỉnh táo trở lại. Nhưng chỉ được vài phút sau, cơn buồn ngủ lại tới, và tôi lại lặp lại việc kia. Mỗi lần đắp khăn nóng ướp đá lạnh tôi thấy thật thoải mái, cảm giác rất “phê”, cơn buồn ngủ lập tức biến mất. Tôi phát hiện ra mình đã rất thích cái cảm giác đó. Thì ra chấp trước lần này của tôi chính là thích chườm khăn nóng đá lạnh. Thật là kỳ diệu! Đúng là mọi sự an bài của Sư Phụ đều không hề ngẫu nhiên. Sau khi tìm ra nó, cơn buồn ngủ kia không còn quay lại quấy nhiễu tôi nữa.
Có một hôm không thể gắng gượng được nữa, tôi cất sách đi ngủ. Trước khi chìm vào giấc ngủ tôi phát hiện thấy mình đang rất mãn nguyện vì được đắp chăn ấm nằm nệm êm, được nhắm mắt đi ngủ đúng trong lúc buồn ngủ nhất. Đây quả là biểu hiện đặc trưng của tâm an dật. Còn có lần tôi thấy mình lo lắng, sợ mình ngủ không đủ mà mệt mỏi cả ngày hôm sau. Tâm lo sợ này cũng cần phải tống khứ đi.
Một lần khác tôi không thể dậy sớm đúng giờ để học Pháp và bỏ lỡ buổi học Pháp sáng đó. Sau khi dậy tôi thấy hôm đó mình có chút bực tức, con gái quậy một chút cũng có thể khiến tôi nổi cáu. Có một hôm buồn ngủ quá mà hướng nội mãi không tìm ra nguyên nhân, tôi vừa cay cú vừa mệt mỏi, không kiềm chế được vung tay tát thẳng vào mặt mình nghe đốp một tiếng. Ngay sau cú tát tôi đã tìm ra chấp trước của mình, cơn buồn ngủ cũng lặn luôn không còn dấu vết. Cũng một lần nữa cơn buồn ngủ đến và khiến tôi quá mệt mỏi, lần này tôi thấy thật thất vọng với bản thân, sao mà tôi có nhiều chấp trước thế này, mà lần này tìm mãi không ra nguyên nhân dẫn tới buồn ngủ, tôi uất ức đến gần như phát khóc, mếu máo lệ trên mắt chỉ chực rơi ra; lệ chưa kịp rơi, chấp trước đã lộ diện và bị tóm gọn, đương nhiên sau đó tôi hoàn toàn tỉnh táo trở lại. Cáu giận, uất ức vì bất kỳ lý do gì cũng đều là chấp trước cần phải buông bỏ. Đôi khi chúng ta cần phải vấp ngã thật sự mới có thể tìm thấy tâm chấp trước ẩn giấu rất sâu trong tư tưởng.
Một buổi sáng trong khi đọc Pháp, cơn buồn ngủ khó chịu lại tìm đến. Tôi cố không để ý đến nó và tiếp tục đọc Pháp thật nhanh. Tôi phát hiện ra mình đã quen với kiểu đọc lướt cho thật nhanh như thế từ bao giờ, giống như đang đọc báo hay tin tức trên facebook vậy. Cậy rằng mình đã đọc Chuyển Pháp Luân không ít lần, nhiều khi tôi đọc rất nhanh, có từ nào mà đọc bị vấp tôi cũng bỏ qua luôn, vì đoạn đó mình đã đọc qua rất nhiều lần rồi. Đây lại là sự bất kính nữa. Nghĩ được tới đó, sự tỉnh táo liền quay trở lại, đánh bay cơn buồn ngủ khó chịu kia đi. Hiện nay khi học Pháp, tôi đọc chậm và rõ từng câu từng từ, vấp ở đâu thì đọc lại ở đó. Làm như vậy tôi cảm thấy tốt hơn rất nhiều mặc dù đọc có chậm hơn một chút so với trước.
Trên đây là những tâm chấp trước mà tôi còn có thể nhớ lại được vào lúc này. Tôi xin khẳng định rằng chúng có liên quan đến "buồn ngủ" vì sau khi chúng bị thanh trừ, tôi liền lập tức tỉnh táo lại ngay. Đến thời điểm hiện tại, cơn buồn ngủ không còn ám ảnh tôi mỗi khi học Pháp nữa, tôi có thể hoàn thành một bài giảng mà không cần phải đứng lên đi lại hoặc đi rửa mặt. Tất nhiên đôi khi tôi vẫn bị “ma ngủ” quấy nhiễu, nhưng nó xuất hiện lúc nào là tôi xử đẹp nó lúc đấy ngay, bởi vì tôi đã nắm được điều căn bản nhất. Cũng vì lý do đó, tôi quyết định viết ra những dòng chia sẻ này, hi vọng rằng chúng có thể ít nhiều giúp ích cho các đồng tu có cùng chung vấn đề như tôi.
Để kết thúc bài chia sẻ, tôi xin chia sẻ một điều mà tôi nhận ra được tại tầng thứ của mình. "Buồn ngủ" là một loại vật chất gây mệt mỏi, khi xuất hiện, nó khiến chúng ta muốn nhắm mắt, thèm đi ngủ; nó thực chất không hề liên quan đến thể trạng, sức khỏe của chúng ta, ít nhất là đối với người tu luyện Đại Pháp. Vì thế hãy xem "buồn ngủ" là một dạng mâu thuẫn, mà mâu thuẫn thì đều là hệ quả của một hay nhiều chấp trước. Làm như thế chúng ta mới có thể hướng nội và giải quyết "buồn ngủ" từ tận gốc rễ.
Xin chúc các đồng tu luôn vững bước, tinh tấn trên con đường tu luyện.
Vì sao học Pháp lại buồn ngủ?
Vì sao học Pháp lại không tập trung, nghĩ tưởng lung tung?
Vì sao học Pháp vẫn chưa thấu Pháp?
Những bài chia sẻ thể ngôn nông cạn của cá nhân chỉ dành cho những ai có tâm cầu Đạo, chân tu. Những ai không thuộc đối tượng này các bạn có thể bỏ qua bài viết. Xin cám ơn.
Việc học Pháp là tối quan trọng, Sư Phụ giảng rằng đã là một người tu luyện Chân Chính dù làm gì trong hoàn cảnh nào, thì cũng phải học Pháp, học Pháp chính là cơ sở nền tảng cho tu luyện, lực lượng Đại Pháp có thể phá trừ hết thảy mọi thứ không đúng đắn. Và khi học Pháp đủ tốt thì những việc thứ 3 chúng ta làm mới khởi tác dụng cứu người.
“Không thực tu một cách chân chính, thì rất khó vượt qua được. Hiện nay mọi người đã hiểu rõ vì sao tôi thường xuyên nhắc chư vị đọc sách cho nhiều! Pháp có thể phá hết thảy chấp trước, Pháp có thể phá hết thảy tà ác, Pháp có thể phá trừ hết thảy lời dối trá, Pháp có thể kiên định chính niệm.
Trích “Bài trừ can nhiễu" Tinh tấn yếu chỉ 2.
Thế nhưng người tu luyện đã học Pháp đúng chưa. Nếu học Pháp mà tình trạng buồn ngủ, tâm cứ không yên ổn, không tập trung thì phải làm sao? Tại sao học mãi mà chỉ hiểu được nghĩa bề mặt thôi? Tại sao Sư Phụ lại giảng rằng có vô số Phật Đạo Thần đằng sau câu chữ trong Chuyển Pháp Luân. Tầng tầng lớp lớp nội hàm đằng sau câu chữ giúp chỉ đạo tu luyện, ngộ Pháp tầng nào sẽ chỉ đạo tu luyện cho tầng ấy. Sư Phụ có giảng rằng (không nguyên văn) sau mỗi lần đọc đều được thu hoạch. Vậy bản thân khi đọc nhiều lượt như vậy, hàng trăm lượt rồi, chúng ta có thu hoạch được điều gì không?
Trước hết tôi muốn chia sẻ về việc tại sao học Pháp lại buồn ngủ?
Sư Phụ có giảng trong Chuyển Pháp Luân (bài giảng thứ 9)
“có người lấy cuốn sách này của tôi mà tuỳ tiện vẽ vẽ vạch vạch vào đó. Những ai đã khai [mở] thiên mục trong chúng ta đều thấy rằng, cuốn sách này nhìn là thấy ngũ quang thập sắc, lấp lánh ánh vàng kim, mỗi chữ đều là hình tượng Pháp thân của tôi”
Đối với việc giữ gìn cẩn thận, bọc sách trong ngoài, không quăng góc, không làm bẩn (dơ), đặt sách nơi cao ráo, để riêng 1 khu vực sách Đại Pháp, chúng ta đã thực sự nghiêm túc đối đãi tốt hay chưa?
Có 1 lần tôi nhận thấy sách của 1 số học viên, tuy mới tu nhưng rất cũ, còn sách của một số người tu luyện khác tuy tu lâu hơn mà vẫn còn rất mới. Vậy vấn đề này không phải là thời gian, mà là chúng ta có thực sự trân quý và gìn giữ sách Đại Pháp hay chưa!
“đường vẽ kia từ bút của chư vị là đen thui, chư vị dám tuỳ tiện vẽ lên đó là sao? Chúng tôi đang làm gì tại nơi đây? Chẳng phải đưa chư vị tu lên trên là gì? Có những sự việc chư vị cũng cần suy nghĩ một chút; cuốn sách này có thể chỉ đạo chư vị tu luyện; chư vị có nghĩ rằng nó trân quý hay không? “ (bài giảng thứ 9 - Chuyển Pháp Luân)
Nghiêm túc thật sự nghiêm túc, trân quý thật sự trân quý cuốn sách này cũng chính là Kính Sư Kính Pháp. Dĩ nhiên khi chúng ta tuỳ tuỳ tiện tiện, xem sách Đại Pháp như 1 quyển sách bình thường thì làm sao mà Thần Ngủ không đến hỏi thăm chúng ta mỗi khi học Pháp! 1 tiêu chuẩn cơ bản đầu tiên mà còn chưa làm được thì làm sao muốn biết thấu Pháp cao tầng.
Khi vệ sinh lau bụi trên bìa sách cũng phải dùng khăn giấy sạch lau, lau riêng tờ bìa; tránh không được lau đè lên hình Sư Phụ, vì mỗi hình Sư Phụ đều có Pháp Thân. Khi lau cũng phải tránh hai chữ ĐẠI PHÁP không lau đè lên chữ.
Cất giữ sách Đại Pháp, cũng cần phải có 1 khu vực riêng, không để chung với sách người thường. Đặt ở 1 nơi cao ráo, sạch sẽ tôn nghiêm cũng chính là Kính Sư Kính Pháp. Tôi nhớ lại hồi tôi mới tu, nhận thức chưa sâu, khi ấy tôi mua 1 cái kệ để riêng sách ra, nhưng vì nhà nhỏ nên tôi lại đặt cái kệ sách ấy gần cửa nhà vệ sinh. Sau đó mấy ngày liền tôi nằm mơ, tôi cứ bị lạc vào 1 nhà toilet to mà toàn bùn phân. Tôi tâm sự với 1 bạn đồng tu và khoe về việc cái kệ tôi mới mua, khi ấy bạn đồng tu mới nói với tôi rằng, do tôi để gần nhà vệ sinh quá. Lúc ấy tôi mới ngộ là Sư Phụ điểm hoá cho tôi thông qua lời của bạn đồng tu ấy, sau đó tôi về nhà lại tìm 1 nơi khác để để sách.
Khi học Pháp, tư thế ngồi học đã nghiêm chỉnh chưa, quần áo trang phục có phù hợp chưa. Chẳng phải khi chúng ta đi học trên trường lớp, cũng có nội quy phải mặc đồng phục, phải nghiêm túc trong trang phục, không tuỳ tiện thích mặc gì mặc đó sao, ngồi học các bạn học sinh không được nói chuyện trong giờ học sao. Vậy việc học của Đại Pháp còn là 1 việc nghiêm túc hơn gấp bội, quan trọng hơn gấp bội bất cứ việc nào khác của người thường. Chính thái độ đúng đắn hay không, nghiêm túc hay không, đối với Đại Pháp quyết định việc học Pháp can nhiễu hay không đến chúng ta.
(Còn tiếp)
Ghi chú: những lời giảng của Sư Tôn đều được trích dẫn 1 cách cẩn thận và trân quý. Quý đồng tu có thể tìm đọc thêm trên trang falundafa.org
==============================
Vì sao học Pháp không tập trung?
Vì sao học Pháp vẫn chưa thấu Pháp?
Những bài chia sẻ thể ngộ nông cạn của cá nhân chỉ dành cho những ai có tâm cầu Đạo, chân tu. Những ai không thuộc đối tượng này các bạn có thể bỏ qua. Xin cám ơn.
Ở phần trước tôi đã chia sẻ vì sao học Pháp lại buồn ngủ. Phần này tôi xin tiếp tục chia sẻ vì sao học Pháp vẫn chưa thấu Pháp, vì sao học Pháp lại suy nghĩ lung tung, không tập trung tư tưởng ?
Sư Phụ có giảng trong “Pháp Luân Công” phần Chiêu Ma, với lòng tôn trọng sâu sắc những lời giảng của Sư Tôn, tôi xin được phép trích dẫn :
“Nếu chư vị chỉ để trừ bệnh khoẻ thân, thì không ma nào tới quản chư vị, đến khi chư vị muốn tu luyện lên tầng thứ cao, chúng bèn muốn quản chư vị, chúng có thể dùng tới các loại phương pháp tới quấy nhiễu chư vị, mục đích là không để chư vị tu luyện lên tầng thứ cao, khiến chư vị tu không thành. Phương thức mà ma xuất hiện là có nhiều loại, có [loại] là bằng hiện tượng trong cuộc sống thường ngày của chúng ta để xuất hiện, có [loại] là bằng hình thức tín tức đến từ không gian khác để tiến hành can nhiễu, khiến chư vị hễ vừa ngồi xuống liền có loại việc nào đó đến quấy nhiễu, làm chư vị không cách nào nhập tĩnh, không cách nào tu lên tầng thứ cao; có những lúc chư vị hễ ngồi đả toạ liền trầm trầm muốn ngủ hoặc suy nghĩ miên man, không cách nào nhập vào [trạng] thái luyện công; có những lúc chư vị hễ luyện công, hoàn cảnh vốn vẫn an tĩnh, thì đột nhiên có tiếng bước chân, tiếng sập cửa, tiếng còi ô-tô, có điện thoại can nhiễu, các loại quấy rầy, khiến chư vị không tĩnh xuống được”
Như vậy nếu không tập trung học Pháp được thì ngoài việc đầu não bản thân chúng ta cứ lo nghĩ lung tung từ chuyện công việc, chuyện gia đình đến chuyện chính trị, còn có lý do nữa chính là sự can nhiễu thực sự. Sự can nhiễu này không chỉ đối với luyện tĩnh công mà còn ở phương diện học Pháp. Tuy nhiên Sư Phụ cũng giảng hình thức can nhiễu này cũng không tồn tại lâu, vì Pháp môn chúng ta tu luyện rất nhanh, quan trọng chúng ta phải thực sự làm chủ ý thức “Chủ ý thức phải mạnh”.
Chúng ta biết có nhiều cách học Pháp: có thể thông đọc, học thuộc, ghi nhớ Pháp hoặc chép tay. Phương pháp học nào cũng là phương pháp, miễn sao nội dung học là không thay đổi. Nhiều học viên cực đoan đến nỗi mỗi khi thấy có 1 cách học khác, thì họ nhắm mắt mà phản đối.
Tôi nhớ hồi còn bé khi học tiếng anh, lấy ví dụ khi học tiếng anh học những từ vựng mới, có người sẽ học thuộc đọc đi đọc lại, có người chép ra giấy chép chép chép cho nhớ mặt chữ, có người thì chép ra 1 tờ giấy to và dán trên tường, nơi cửa ra vào nhiều nhất để họ thường xuyên thấy. Có người học theo kiểu khảo bài với bạn.. chung quy là có nhiều cách học, nhưng rốt cuộc thì phải học, học từ đầu đến cuối, không sáng tạo các cách học như hôm nay học bài 1 ngày mai thích thì học bài 4, ngày mốt học bài 9.
Sư Phụ từng trả lời 1 câu hỏi của học viên về vấn đề phương pháp học
Đệ tử : con vẫn luôn nhận thức rằng chép sách là lãng phí thời gian
Sư Phụ : vậy là chư vị có chút cực đoan rồi đó
(Kinh văn Giảng Pháp tại Pháp hội các phụ đạo viên tại Trường Xuân 1998)
Vậy vì sao học Pháp vẫn chưa thấu Pháp, chưa ngộ Pháp?
Trong bài 1 đầu tiên của Chuyển Pháp Luân, Sư Phụ đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần hai chữ CHÂN CHÍNH, khi chúng ta mang bất cứ truy cầu nào cũng đều không đắc được gì cả.
“Chúng ta là những người ngồi tại nơi này, đến để học Đại Pháp, chư vị phải coi mình đúng là những người luyện công chân chính đang ngồi tại đây, chư vị phải vứt bỏ các tâm chấp trước. [Khi] chư vị ôm giữ các loại mục đích hữu cầu mà đến học công, học Đại Pháp, [thì] chư vị sẽ không học được gì hết”
Nội hàm 2 chữ CHÂN CHÍNH quá lớn, tập trung hầu hết ở bài giảng thứ 1 của Chuyển Pháp Luân, và rải rác từ bài 2 trở đi. Nếu chúng ta bình tâm đọc Chuyển Pháp Luân 1 cách thành kính, chậm rãi, đọc một cách CHÂN CHÍNH, chứ không phải đọc số lượng hôm nay tôi đọc mấy bài, bạn đọc mấy bài để xem ai đọc nhanh hơn, nhiều hơn, ai đọc diễn cảm hơn, giọng ai vang hơn to hơn thì tôi nghĩ chúng ta sẽ có thể hiểu và nhớ Pháp ít nhất là những nội dung cơ bản bề mặt.
Còn về Ngộ Pháp, thấu Pháp: nằm ở nhiều phương diện nào là căn cơ, là ngộ tính, là phó xuất, là tâm tính của người tu luyện, tất cả cùng đề cao thì Pháp mới mở được nội hàm cho chúng ta. Biết được Pháp lý của từng tầng, thì mới có thể chỉ đạo chúng ta tu luyện, những điều này không đến từ việc cá nhân nào thông minh hơn cá nhân nào, học thức cá nhân nào cao hơn cá nhân nào.
Nếu người tu luyện định rõ mong muốn tu luyện CHÂN CHÍNH, thì việc thấu Pháp, ngộ Pháp là cần thiết để có thể biết tu luyện là như thế nào, Pháp sẽ chỉ đạo người tu như thế nào.
“Các tầng khác nhau có các Pháp tại các tầng khác nhau. Pháp tại các tầng khác nhau có tác dụng chỉ đạo khác nhau; vậy nên chư vị mà lấy [Pháp] lý của tầng thấp [thì] không thể chỉ đạo tu luyện lên cao tầng. Những gì tôi nêu rõ sau đây đều là [Pháp] lý tu luyện tại cao tầng; tôi kết hợp những điều tại các tầng khác nhau vào bài giảng; vậy nên trong quá trình tu luyện của chư vị từ nay trở đi, [chúng] sẽ có tác dụng chỉ đạo cho tu luyện”
“Không tăng công còn có một nguyên nhân nữa, chính là [vì] không biết Pháp tại cao tầng, [thì] không thể tu luyện lên được”
Trích Chuyển Pháp Luân
Khi tôi thực sự buông bỏ tất cả những chấp trước về việc học thuộc Pháp, hay học tiếng Trung với vọng tưởng rằng mình sẽ thấu được nội hàm của Chuyển Pháp Luân, và khi thực sự nghiêm túc học Pháp với tinh thần tự nhiên nhất, biết được phương pháp thực tu nhất thì cái “Ngộ” ấy đến cũng rất tự nhiên.
Hy vọng bài chia sẻ có thể giúp được ít nhiều những đồng tu phần nào.
Ghi chú: những lời giảng của Sư Tôn đều được trích dẫn 1 cách cẩn thận và trân quý. Quý đồng tu có thể tìm đọc thêm trên trang falundafa.org
Loại bỏ tâm sắc dục trong từng ý từng niệm: http://vn.minghui.org/news/87236-loai-bo-tam-sac-duc-trong-tung-y-tung-niem.html
Buông bỏ tâm sắc dục, siêu xuất người thường: http://vn.minghui.org/news/81820-buong-bo-tam-sac-duc-sieu-xuat-nguoi-thuong.html
Biểu hiện của tâm sắc dục tại các không gian khác: http://vn.minghui.org/news/124366-bieu-hien-cua-tam-sac-duc-tai-cac-khong-gian-khac.html
Tâm sắc dục còn độc hơn cả rắn rết và bọ cạp: http://vn.minghui.org/news/86690-tam-sac-duc-con-doc-hon-ca-ran-ret-va-bo-cap.html
Những khó khăn khi buông bỏ tâm sắc dục: http://vn.minghui.org/news/135340-nhung-kho-khan-khi-buong-bo-tam-sac-duc.html
Đệ tử: Chấp trước vào “tự ngã” có phải là chấp trước khó từ bỏ nhất không?
Sư phụ: Tất nhiên. Mỗi người sống trên thế gian đều là vì tự kỷ, vì vậy sinh ra rất nhiều tư tâm. Có tư [tâm], liền dễ dàng bị cái tình lay động, trong tu luyện biểu hiện ở tất cả mọi nơi đều là những thứ khó xả bỏ khó tách rời, nó trở thành những chấp trước khó buông bỏ trong tu luyện. Có khi đang làm công việc Đại Pháp, thì xuất hiện chấp trước vào duy hộ vai trò của bản thân, duy hộ danh tiếng của bản thân, duy hộ ý thích của bản thân. [Đối với] người thường, biểu hiện càng thêm phức tạp, họ thích làm quan, thích làm rạng rỡ tổ tông, thích người khác khen ngợi mình, thích có tiền, và thích tài trí hơn người. Duy hộ ý thích của bản thân chính là biểu hiện của tình và vị tư vị ngã, cho nên rất khó buông bỏ. Cần phải từ bi đối đãi với tất cả mọi người và gặp bất kể vấn đề gì đều phải tìm nguyên nhân ở bản thân. Cho dù người khác chửi mắng chúng ta hay đánh chúng ta, chúng ta đều phải hướng nội, “Có phải do mình chỗ này không đúng nên mới tạo thành như vậy?” Như vậy chư vị có thể tìm ra nguyên nhân căn bản của mâu thuẫn, cũng là biện pháp tốt nhất để trừ bỏ chấp trước vào vị tư vị ngã. Hãy mở rộng tâm của mình, cho đến khi trong tu luyện cá nhân chư vị có thể tha thứ cho tất cả mọi người, bao gồm cả tha thứ cho kẻ thù. Là bởi vì, kẻ thù mà chư vị gọi là kẻ thù do con người phân biệt, là con người vì lợi ích mà phân biệt, đó không phải là hành vi của Thần. Cho nên yêu cầu cũng cao, Thần sao có thể coi con người là kẻ thù? Như vậy chúng ta trong quá trình tu luyện, gặp bất kỳ chuyện gì đều phải nghĩ đến người khác trước. Khi chư vị nhận được thứ gì thuộc về người khác, chư vị phải nghĩ đến người khác một chút – họ mất đi thứ này thì có tổn hại gì không, họ trong lòng có thấy buồn không. Bất luận việc gì cũng phải nghĩ đến người khác – trước hết nghĩ đến người khác, sau đó mới nghĩ đến bản thân. Tôi chính là muốn chư vị tu thành viên mãn chính Pháp, chính ngộ, tiên tha hậu ngã. Như vậy là buông bỏ tự tư, là có thể buông bỏ “tự ngã”. Bộ phận đã tu tốt của chư vị, đảm bảo là giống như tôi vừa nói, đều là giống như vậy. Cho nên nhìn từ phía chư vị, khi chư vị gặp vấn đề có thể tìm nguyên nhân ở bản thân, nghĩ đến người khác nhiều hơn, tu luyện bản thân, hướng nội tìm, ít nhìn vào sự hạn chế của người khác hơn, mọi việc đều có thể chiếu theo những gì tôi nói mà làm, kỳ thực chư vị [làm được như vậy là] đang tinh tấn.
https://vi.falundafa.org/jw/kinh_van_19990502.html
Thế nào là tâm từ bi?
Vài suy nghĩ về Tình và Từ bi từ góc độ của một người tu luyện: http://vn.minghui.org/news/65076-vai-suy-nghi-ve-tinh-va-tu-bi-tu-goc-do-cua-mot-nguoi-tu-luyen.html
Bạn liễu giải bao nhiêu về từ bi và làm được bao nhiêu? http://vn.minghui.org/news/106981-ban-lieu-giai-bao-nhieu-ve-tu-bi-va-lam-duoc-bao-nhieu.html
Tu xuất tâm từ bi: http://vn.minghui.org/news/145678-tu-xuat-tu-bi.html
Tu xuất tâm từ bi 2: http://vn.minghui.org/news/70883-tu-xuat-tam-tu-bi-2.html
Tu xuất tâm từ bi 3: http://vn.minghui.org/news/119749-tu-xuat-tam-tu-bi-3.html
Tu xuất tâm từ bi 4: http://vn.minghui.org/news/166747-tu-xuat-tam-tu-bi-4.html
Nói về thiện: http://vn.minghui.org/news/145465-noi-ve-thien.html
1. Phúa Chản Triên Sẩu Phả
Sân Sấn Hứa Y, Tụng Chịnh Xuấy Chi,
Tỉnh Thiên Tú Zuân, Triên Sẩu Phúa Lị.
2. Phả Luấn Choang Phả
Sâng Huậy Zâng Lị, Rúng Xin Trinh Thỉ,
Xự Mẹo Xự Ụ, Phả Luấn Tru Trỉ.
3. Quạn Thung Liẻng Chí Phả
Chịnh Họa Pấn Thỉ, Phả Khai Tính Tỉ,
Xin Sứ Ỵ Mẫng, Thung Thiên Trựa Tị.
4. Phả Luấn Châu Thiên Phả
Xoén Phả Chự Xuy, Xin Chinh Xự Lụy,
Phán Pẩn Quy Chân, Yêu Yêu Xự Trỉ.
5. Sẩn Thung Chi-a Trứ Phả
Yêu Ỵ Ú Ỵ, Ỵn Xuấy Chi Trỉ,
Xự Khung Phây Khung, Tụng Chịnh Rú Ỵ.
1. Fó zhǎn qiānshǒu fǎ (phúa trản triên sấu phả) (Phật Triển Thiên Thủ pháp, bài công pháp Phật mở nghìn tay):
Shēnshén héyī (sân sấn khứa y) (thân thần hợp nhất, thân và thần hợp làm một),
Dòngjìng suíjī (tụng chịnh xuấy chi) (động tĩnh tuỳ cơ, động-tĩnh thế nào là tuỳ theo [khí] cơ),
Dǐngtiān dúzūn (tỉnh thi-an tú dzun) (đỉnh thiên độc tôn, to lớn như đỉnh trời với sự cao quý độc nhất),
Qiānshǒu Fó lì (triên sẩu phúa lị) (thiên thủ Phật lập, Phật lập ra nghìn tay).
2. Fǎlún zhuāng fǎ (phả luấn troang phả) (Pháp Luân Trang pháp, bài công pháp Pháp Luân đứng):
Shēng huì zēng lì (sâng khuậy dzâng lị) (sinh huệ tăng lực, nảy sinh trí huệ tăng cường lực),
Róng xīn qīng tǐ (rúng xin trinh thỉ) (dung tâm khinh thể, tâm bao dung thân thể nhẹ nhàng),
Shì miào shì wù (sự mi-ạo sự ụ) (tự diệu tự ngộ, như là kỳ diệu như là ngộ),
Fǎlún chū qǐ (phả luấn chu chỉ) (Pháp Luân sơ khởi, Pháp Luân bắt đầu khởi [động]).
3. Guàntōng liǎngjí fǎ (quạn thông li-ẻng chí phả) (Quán Thông Lưỡng Cực pháp, bài công pháp thông suốt hai cực):
Jìnghuà běntǐ (chịnh khoạ bấn thỉ) (tịnh hoá bản thể),
Fǎ kāi dǐng dǐ (phả kai tính tỉ) (Pháp khai đỉnh để, Pháp khai mở trên đỉnh và dưới đáy),
Xīn cí yì měng (xin tsứ y mẩng) (tâm từ ý mãnh, tâm từ [bi] ý mạnh mẽ),
Tōngtiān chè dì (thông thi-an chựa tị) (thông thiên triệt địa, thông lên trời và xuống tận đáy đất).
4. Fǎlún zhōutiān fǎ (phả luấn trâu thi-an phả) (Pháp Luân Chu Thiên pháp, bài công pháp Pháp Luân chu thiên):
Xuánfǎ zhì xū (xoán phả chị xư) (toàn Pháp chí hư, quay Pháp [Luân] đến tận hư [không]),
Xīn qīng sì yù (xin trinh sự uỳ) (tâm thanh tự ngọc, tâm thanh [tịnh] như ngọc),
Fǎnběn guīzhēn (phán bẩn qui trân) (phản bổn quy chân),
Yōuyōu shì qǐ (iêu iêu sự trỉ) (du du tự khởi, từ từ dâng lên).
5. Shéntōng jiāchí fǎ (sấn thông chi-a chí phả) (Thần Thông Gia Trì pháp, bài công pháp gia trì thần thông):
Yǒuyì wúyì (yểu ị ú ị) (hữu ý vô ý, ý như có như không),
Yìn suí jī qǐ (ìn xuấy chi trỉ) (ấn tuỳ cơ khởi, [thủ] ấn là chuyển động tuỳ theo [khí] cơ),
Sì kōng fēi kōng (sự kông phây kông) (tự không phi không, như là không như là chẳng phải không),
Dòngjìng rúyì (tụng chịnh rú ị) (động tĩnh như ý, động-tĩnh thế nào ấy là như ý).
Jiéyìn (chía ịn) (kết ấn) → thế tay ‘kết ấn’.
Mílè shēnyāo (mí lựa sân i-ao) (Di Lặc thân yêu) → Di Lặc duỗi lưng.
Rúlái guàndǐng (rứ lái quạn tỉnh) (Như Lai quán đỉnh) → Như Lai quán đỉnh.
Héshí (khứa sứ) (hợp thập) hoặc Shuāngshǒu héshí (soang sẩu khứa sứ) (song thủ hợp thập) → thế tay ‘hợp thập’, hai tay làm hình chữ thập, chắp tay trước ngực.
Zhǎng zhǐ qiánkūn (tráng trỉ triến kuân) (chưởng chỉ càn khôn) → tay chỉ trời tay chỉ đất, tay chỉ càn khôn trời đất.
Jīn hóu fēnshēn (chin khấu phân sân) (kim hầu phân thân) → khỉ vàng phân thân.
Shuānglóng xiàhǎi (soang lúng xi-ạ khải) (song long hạ hải) → hai rồng xuống biển.
Púsà fú lián (p’ú xạ phú liến) (Bồ Tát phù liên) → Bồ Tát vịn hoa sen.
Luóhàn bèishān (lúa khạn pây san) (La Hán bối sơn) → La Hán vác núi.
Jīngāng pái shān (chin cang pái san) (Kim Cương bài sơn, Kim Cang bài sơn) → Kim Cương đẩy núi, Kim Cang đẩy núi.
Dié kòu xiǎofù (tiế kậu xi-áo phụ) (điệp khấu tiểu phúc) → xếp trùng hai tay (khẩu) ở bụng dưới.
Tóuqián bàolún (thấu triến pạo luấn) (đầu tiền bão luân) → ôm bánh xe trước đầu, ôm bánh xe trước mặt.
Fù qián bào lún (phụ triến pạo luấn) (phúc tiền bão luân) → ôm bánh xe trước bụng.
Tóudǐng bàolún (thấu tỉnh pạo luấn) (đầu đỉnh bão luân) → ôm bánh xe trên đỉnh đầu.
Liǎngcè bàolún (li-ẻng tsựa pạo luấn) (lưỡng trắc bão luân) → ôm bánh xe hai bên.
Dān shǒu chōng guàn (tan sẩu trung quạn) (đơn thủ xung quán) → xung lên và quán xuống riêng từng tay.
Tóngshí chōng guàn (thống sứ trung quạn) (đồng thời xung quán) hoặc Shuāngshǒu chōng guàn (soang sẩu trung quạn) (song thủ xung quán) → hay tay đồng thời lên xuống (xung quán).
Shuāngshǒu tuīdòng fǎlún (soang sẩu thuây tụng phả luấn) (song thủ suy động Pháp Luân) → hai tay đẩy chuyển động Pháp Luân.
Dǎ shǒuyìn (tả sẩu ịn) (đả thủ ấn) → làm động tác thủ ấn, động tác tay ấn.
Shǒuyìn zhī yī, èr, sān, sì (sẩu ịn chi y, ạr, xan, sự) (thủ ấn chi nhất, nhị, tam, tứ) → động tác tay thủ ấn thứ một, hai, ba, bốn. Jiāchí (chi-a trí) (gia trì) → gia cường duy trì [thần thông].
Jiāchí qiú zhuàng shéntōng (chi-a trí tríu troạng sấn thông) (gia trì cầu trạng thần thông) → gia trì thần thông hình cầu.
Jiāchí zhù zhuàng shéntōng (chi-a trí trụ troạng sấn thông) (gia trì trụ trạng thần thông) → gia trì thần thông hình trụ.
Chính niệm (13-10-2002)
Chính niệm trừ hắc thủ (16-3-2004)
Chính niệm ngăn chặn hành vi ác (15-2-2004)
Tác dụng của chính niệm (16-7-2001)
Giảng Pháp tại Pháp hội miền tây Mỹ quốc 2004 [Los Angeles] (28-2-2004)
Giảng Pháp tại Pháp hội miền trung Mỹ quốc năm 2003 [Chicago] (22-6-2003)
Giảng Pháp vào Tết Nguyên Tiêu năm 2003 @ trang 36 sách ĐL:
Đệ tử: Phát chính niệm thì hình thế tay có ảnh hưởng hiệu quả không?
Sư phụ: Giảng về nguyên tắc, chư vị chỉ cần lý trí thanh tỉnh, chư vị có động tác hay không đều không ảnh hưởng. Tuy nhiên, từ động tác chư vị làm là có thể nhìn ra, chư vị có nhập tĩnh hay không, [hay] chư vị vẫn là trôi qua trong mê mờ. (Sư phụ cười) Vì thế khi phát chính niệm mọi người nhất định phải thanh tỉnh. Trạng thái ấy là một loại trạng thái gì? Vô cùng thoải mái, dường như mọi thứ đều tĩnh chỉ hẳn lại, thân thể hoàn toàn được năng lượng bao dung.
Không nên thay Sư Phụ dạy phát chính niệm cho học viên mới (21-10-2020)
Tuyển tập các bài chia sẻ về Phát chính niệm (28-09-2010)
Liên quan đến việc “phát chính niệm” (26-11-2001)
Hai thế tay phát chính niệm (12-6-2001)
Phát chính niệm (25-5-2001)
TĨNH TÂM HỌC PHÁP
Học Pháp chẳng gắng chuyên tâm
Thấy ai tu tốt là hâm mộ người
Xem ra là chuyện đáng cười
Sư tôn giảng rõ mười mươi Pháp rồi
Tĩnh tâm mà học đi thôi
Chớ có cầu Pháp xa xôi bên ngoài
Đường tu Sư đã an bài
Ôm Chân – Thiện – Nhẫn hung hoài trong tâm
Hướng nội đào chấp sâu thâm
Dùng Pháp đối chiếu tiêu trầm sẽ tan
Đường tu dẫu có gian nan
Khi đã vô lậu khải hoàn không xa
Thấy tâm người hãy bỏ chấp ta
Hóa giải mâu thuẫn nhận ra tu mình
Lại thêm bỏ lợi danh tình
Thuộc Pháp nhẩm Pháp bên mình luôn luôn
Tu luyện chẳng có mẫu khuôn
Mỗi người quan ải thật muôn vạn hình
Do vậy hãy cứ bình bình
Học Pháp nghiêm chỉnh thình lình ngộ ra
Tu luyện là tu chính ta
Đừng nhìn người khác mà xa Pháp rời
Tĩnh tâm học Pháp thời thời
Là cách tốt nhất về Trời trên kia.
( Thơ: Hư Vân )