TRẠM BIẾN ÁP 500KV PLEIKU
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN
Tác giả: Trịnh Văn Hải
(Dưới đây là bản thảo, rất mong được anh em
góp ý để nội dung được phong phú hơn. Thư gửi về email haitovinhdien@gmail.com)
PHẦN MỘT
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
ĐƯỜNG DÂY SIÊU CAO ÁP 500KV BẮC NAM
VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA TRẠM BIẾN ÁP 500KV PLEIKU
I. Bối cảnh lịch sử
Đất nước Việt Nam ta từ sau Đại hội Đảng lần thứ sáu (1986), các chủ trương đổi mới và chính sách mở cửa của Đảng ta đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh, tốc độ tăng trưởng GDP năm sau cao hơn năm trước (từ 5,1% vào năm 1990 đến 9,5% vào năm 1995). Nhu cầu sử dụng điện năng cũng tăng hàng năm, cụ thể là 13,12% vào năm 1993; 18,43% vào năm 1994 và 20,62% vào năm 1995 (so với năm trước). Khu vực Miền Nam và thành phố Hồ Chí Minh có sự phát triển mạnh về kinh tế nhưng việc phát triển nguồn điện ở khu vực này không đáp ứng kịp thời nhu cầu tăng trưởng. Trong giai đoạn 1991 đến 1994 chỉ có Nhà máy Nhiệt điện Bà Rịa – 230MW được đưa vào vận hành. Công suất lắp đặt của Miền Nam chỉ đáp ứng được 89,73% nên hạn chế bằng cách cắt điện luân phiên hoặc đột xuất hầu như tất cả các ngày trong tuần. Khu vực Miền Trung được cấp điện chủ yếu qua đường dây 220kV Vinh – Đồng Hới lấy điện từ Hòa Bình, đường dây 66kV từ Nhà máy thủy điện Đa Nhim cấp cho Cam Ranh, Khánh Hòa và một số nguồn diezel nhỏ tại chỗ. Do đường dây quá dài nên công suất truyền tải bị hạn chế và chất lượng điện cuối nguồn không đảm bảo, lưới thường xuyên bị sụp đổ. Công suất lắp đặt của Miền Trung chỉ đáp ứng được 40,91% nhu cầu (lắp đặt 90MW, nhu cầu 220MW). Trong khi đó, tại Miền Bắc, các nhà máy nhiệt điện than Uông Bí, Ninh Bình, Phả Lại, các tổ máy từ số 3 đến tổ máy 8 của nhà máy thủy điện Hòa Bình lần lượt được đưa vào vận hành, Miền Bắc cơ bản thừa công suất. Trước tình hình đó, Lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta quyết định xây dựng đường dây siêu cao áp 500kV truyền tải điện năng dư thừa từ Miền Bắc vào Miền Nam và Miền Trung. Trạm Biến áp 500kV Pleiku ra đời trong bối cảnh đó.
II. Mục tiêu, ý nghĩa
Mục tiêu:
- Xây dựng công trình đường dây 500kV là nhằm truyền tải lượng điện năng dư thừa từ Miền cung cấp cho Miền Nam và Miền Trung lúc đó đang thiếu điện nghiêm trọng, đồng thời liên kết hệ thống điện cục bộ của ba Miền thành một khối thống nhất. Đáp ứng nhu cầu về điện cho sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội cho Miền Nam, Miền Trung và cả nước.
- Xây dựng Trạm Biến áp 500kV Pleiku là nhằm tải hết lượng công suất từ các nhà máy thủy điện trên các tỉnh Tây Nguyên đưa lên lưới điện quốc gia; cung cấp điện trực tiếp cho các tỉnh Tây Nguyên và một số tỉnh duyên hải Miền trung; bù hệ thống.
Ý nghĩa:
- Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu điện ở Miền Trung, Miền Nam, Tây Nguyên
- Thống nhất hệ thống điện Việt Nam.
- Giữ cho hệ thống điện làm việc ổn định.
III. Những thuận lợi, khó khăn
Thuận lợi:
Sự quyết tâm cao của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta.
Sự ủng hộ mạnh mẽ của toàn xã hội.
Lực lượng lao động ở nước ta dồi dào, trẻ, khỏe, nhiệt tình.
Sự ủng hộ chí tình của các nước anh em, bạn bè của nước ta trên thế giới.
Khó khăn:
Trong quá trình triển khai, dự án cũng vấp phải những ý kiến hoài nghi của nhiều cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước (trong đó có cả Ngân hàng thế giới) nghi ngờ sự thành công của dự án.
Kết luận: Đường dây 500kV Bắc – Nam mạc 1 có tổng chiều dài 1487km gồm có 3437 cột điện tháp sắt đi qua 14 tỉnh thành gồm Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam – Đà Nẵng (nay là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng), Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk (Nay tách ra thành hai tỉnhlà Đắk Lắk và Đắk Nông), Sông Bé (nay là các tỉnh Bình Phước và Bình Dương), Long An, thành phố Hồ Chí Minh; trong đó qua vùng đồng bằng là 297km (chiếm 20%), trung du – cao nguyên là 669km (chiếm 45%), núi cao, rừng rậm là 521km (chiếm 35%) với 7 lần vượt sông (sông Đà, sông Mã, sông Lam, sông La, sông Thạc Hãn, sông Hương, sông Sài Gòn) và 17 lần vượt quốc lộ.
Công trình được Thủ tướng Võ Văn Kiệt phát lệnh khởi công phần đường dây vào ngày 5/4/1992 tại các vị trí móng số 54, 852, 2702 và khởi công phần trạm biếp áp vào ngày 21/01/1993 tại trạm biến áp Phú Lâm, thành phố Hồ Chí Minh.
Lúc 19 giờ 6 phút ngày 27/5/1994, tại Trung Tâm Điều Độ Hệ thống điện Quốc gia, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ra lệnh hòa hệ thống điện Miền Nam với 4 tổ máy của nhà máy thủy điện Hòa Bình tại trạm 500kV Đà Nẵng qua đường dây 500kV, chính thức đưa hệ thống 500kV vào vận hành. Đây cũng chính là ngày Trạm biến áp 500kV Pleiku chính thức được mang điện vận hành.
PHẦN HAI
TRẠM BIẾN ÁP 500KV PLEIKU
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Trạm biến áp 500kV Pleiku là một điểm nút cực kỳ quan trọng trong lưới điện siêu cao áp Quốc gia cũng như hệ thống điện Việt Nam. Nhiệm vụ chính của trạm là truyền tải công suất từ Miền Bắc vào Miền Nam và từ Miền Nam ra Miền Bắc khi mùa mưa của hai miền ngược nhau, nhận nguồn từ các nhà máy thủy điện trên khu vực các tỉnh Tây Nguyên hòa lên lưới điện quốc gia, cung cấp điện trực tiếp cho các tỉnh Tây Nguyên và một số tỉnh duyên hải Miền Trung, như Gia Lai, Kon Tum, Daklak, Daknong, Bình Định, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa…Ngoài ra trạm còn có nhiệm vụ không kém phần quan trọng đó là chức năng bù để giữ cho hệ thống điện làm việc ổn định.
I. Địa điểm:
Trạm biến áp 500kV Pleiku được xây dựng tại thôn 4 xã Nghĩa Hòa, huyện Chư păh, tỉnh Gia Lai ( Nay là thị trấn Phú Hòa, huyện Chư păh, tỉnh Gia Lai). Cách thành phố Pleiku 17km về phía Bắc và cách thành phố Kon Tum 35km về phía Nam dọc theo quốc lộ 14.
II. Đơn vị chủ quản
Trạm biến áp 500kV Pleiku khi thành lập do Sở Truyền tải điện I (nay là Công ty Truyền tải điện 2) thuộc Công ty Điện Lực 3 (nay là Tổng Công ty Điện lực Miền Trung) quản lý. Đến tháng 1 năm 1998 đến nay do Công ty Truyền tải điện 3 - Tổng Công ty Truyền tải điện Quốc gia quản lý.
III. Quá trình xây dựng và phát triển
1. Mốc son lịch sử
Trạm biến áp 500kV Pleiku được khởi công xây dựng xây dựng vào trung tuần tháng 3 năm 1993 (không tổ chức lễ khởi công), với diện tích mặt bằng ban đầu là 06 hec ta. Do Chi nhánh A3 thuộc A500 (Ban quản lý dự án đường dây 500kV)quản lý thi công xây dựng. Đến tháng 7 năm 1993 Chi nhánh A8 thuộc A500 được thành lập, chịu trách nhiệm quản lý xây dựng riêng phần Trạm biến áp 500kV Pleiku, A8 tiếp nhận phần quản lý thi công xây dựng trạm từ Chi nhánh A3.
Nhiệm vụ ban đầu của trạm được thiết kế chỉ với chức năng bù hệ thống (trạm bù) sau này mới điều chỉnh lại thành trạm biến áp.
Ngày 14 tháng 4 năm 1994 Trạm được mang điện áp 220V DC (đường dây Pleiku – Đà Nẵng được phóng điện thử với điện áp 220V DC) và ngày 30 tháng 4 năm 1194 Trạm được mang điện áp 15kV AC (đường dây Pleiku – Đà Nẵng được phóng điện thử với điện áp 15kV AC) để xác định thứ tự pha, đo điện trở DC và kiểm tra thông số đường dây.
Ngày 12 tháng 5 năm 1994 dưới sự chứng kiến của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Bộ trưởng Bộ Năng lượng - Thái Phụng Nê…Bộ Năng Lượng tổ chức lễ “Mừng đóng điện đường dây 500 kV qua Trạm Biến áp 500 kV Pleiku”.
Khi được sự đồng ý của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, điều độ viên hệ thống điện quốc gia ra lệnh đóng điện qua Trạm Biến áp 500kV Pleiku với cấp điện áp 500kV. Trong những phút giây chờ đợi, đón dòng điện siêu cao áp đầu tiên của nước ta chảy qua trạm, không khí tại phòng điều khiển lặng im phăng phắc, tất cả mọi thành viên có mặt tại trạm lúc bấy giờ, từ các chuyên gia nước ngoài, lãnh đạo Bộ Năng lượng, ngành điện, xây lắp và toàn bộ CBCNV trạm, ai nấy đều chung một cảm xúc “rất hồi hộp” (chỉ riêng thủ tướng Võ Văn Kiệt vẫn rất bình thản), một số đồng chí bên Xí nghiệp lắp máy 45-3 và Trung tâm thí nghiệm điện (các đơn vị chịu trách nhiệm lắp đặt và thí nghiệm thiết bị trạm) có thoáng chút lo lắng, căng thẳng. Để rồi tất cả đều vỡ òa trong vang dậy tiếng vỗ tay, những vòng tay ôm chặt, những tiếng chúc mừng trong nụ cười tươi vui khi tiếng “rào” của dòng điện siêu cao áp được phóng vào trạm. Trạm Biến áp 500kV Pleiku chính thức được đóng điện thành công với cấp điện áp 500kV. Ghi dấu mốc son lịch sử của Trạm Biến áp 500kV Pleiku cũng như của ngành điện Việt Nam ta.
Ngày 27 tháng 5 năm 1994 Trạm biến áp 500kV Pleiku được đóng điện với cấp điện áp 500kV - phóng điện đường dây 500kV từ Trạm Biến áp 500kV Phú Lâm qua Trạm biến áp 500kV Pleiku ra tới Trạm Biến áp 500kV Đà Nẵng chuẩn bị cho việc hòa hai hệ thống điện Bắc – Nam tại Trạm Biến áp 500kV Đà Nẵng.
Lúc 19 giờ 6 phút ngày 27/5/1994 hai hệ thống điện Nam – Bắc được hòa chung trên hệ thống đường dây 500kV, nối liền hệ thống điện trên toàn quốc thành một khối thống nhất. Hệ thống điện siêu cao áp 500kV của Việt Nam và Trạm Biến áp 500kV Pleiku chính thức được đưa vào vận hành từ đây.
2. Phát triển vươn lên.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Trạm biến áp 500kV Pleiku đã liên tục được nâng cấp, mở rộng để đáp ứng kịp thời với sự phát triển đó. Đội ngũ cán bộ công nhân viên của trạm đã không ngừng trưởng thành, khẳng định trình độ chuyên môn, bản lĩnh nghề nghiệp của mình qua từng công trình xây dựng và trong công tác quản lý vận hành hàng năm. Với đội ngũ cán bộ kỹ thuật và lực lượng nhân viên vận hành chỉ hơn hai chục người nhưng với sự nổ lực hết mình, vừa triển khai đảm bảo công tác vận hành an toàn trạm vừa tham gia tất cả các công đoạn thi công như lắp đặt các thiết bị nhất thứ, kéo dải cáp, đấu nối mạch nhị thứ của các thiết bị từ 0.4kV đến 500kV và sau này đảm nhiệm việc trung, đại tu các máy cắt 500kV khi đến kỳ trung, đại tu.
Sau đây là các mốc thi công nâng cấp, mở rộng trạm.
- Ngày 12 tháng 11 năm 1994 Trạm đóng điện vận hành thành công Máy Biến áp 500kV AT2 (500/225/35kV, công suất 150/150/50MVA), Máy Biến áp 220kV AT3 (225/115/11 kV, công suất 125/125/20 MVA) và toàn bộ các thiết bị liên quan của các phần 500kV, 220kV, 110kV và 35kV. Thời điểm này hệ thống phân phối phía 500kV của trạm vận hành theo sơ tứ giác hở, gồm hai xuất tuyến đường dây 500kV Pleiku – Đà Nẵng, Pleiku – Phú Lâm (Thàng phố Hồ Chí Minh) và một ngăn Máy biến áp 500kV AT2 cấp điện cho phụ tải 220kV, 110kV. Hệ thống phân phối phía 220kV vận hành theo một thanh cái (C2) có thanh cái đường vòng (C9), gồm một ngăn xuất tuyến đường dây 220kV Pleiku – Quy Nhơn, một ngăn nối lên Máy Biến áp 500kV AT2, một ngăn nối đến Máy Biến áp 220/110/11kV AT3 và ngăn máy cắt 200 làm nhiệm vụ máy cắt thay thế. Hệ thống phân phối phía 110 kV vận hành theo một thanh cái (C1), gồm ba ngăn xuất tuyến đường dây 110kV, một nối tới Trạm Biến áp 110kV Biển Hồ – Pleiku, một ngăn đi Kon Tum (chưa nối vì chưa có trạm biến áp), một ngăn đi Ayunpa – Gia Lai (chưa nối vì chưa có trạm biến áp), một ngăn nối lên Máy Biến áp 220kV AT3. Điện tự dùng của trạm dược lấy qua phía 35kV của Máy biến áp 500kV AT2 và nguồn của địa phương dự phòng.
Kể từ thời điểm này các tỉnh Gialai, Kontum và ĐakLak chính thức được cấp điện, không còn tình trạng cắt điện luân phiên tại các tỉnh Tây Nguyên nữa.
- Ngày 10/02/1996 : Lần thứ hai Trạm Biến áp 500kV Pleiku vinh dự được đón tiếpThủ Tướng Võ Văn Kiệt ghé thăm trạm làn thứ hai .
- Tháng 5 năm 2000 hoàn thành xây dựng và đóng điện vận hành công trình đường dây 500kV Pleiku - Yaly.
- Ngày 10/02/1999 : Lần thứ hai Trạm Biến áp 500kV Pleiku vinh dự được đón tiếpThủ Tướng Võ Văn Kiệt ghé thăm trạm làn thứ ba .
- Năm 2003 trạm thi công lắp đặt bổ sung thiết bị mở rộng thanh cái 220kV; tham gia thi công lắp đặt ngăn thiết bị đường dây 500kV mạch 2 (Pleiku - Phú Lâm; Pleiku – Đà Nẵng)
- Năm 2004:
Tháng 4 năm 2004 hoàn thành xây dựng và đóng điện vận hành công trình đường dây 500 kV Pleiku - Phú Lâm mạch 2.
Hoàn thành xây dựng và đóng điện vận hành công trình thay tụ bù dọc đường dây 500kV Pleiku – Đà Nẵng mạch 1, nâng công suất truyền tải từ 1000MVA lên 2000MVA.
- Năm 2005:
Tháng 9 năm 2005 hoàn thành xây dựng và đóng điện vận hành công trình đường dây Pleiku - Dốc Sỏi - Đà Nẵng.
Tham gia thi công lắp đặt kháng bù ngang 500kV đường dây Pleiku - Tân Định và các thiết bị nhất thứ đi kèm như các Dao cách ly, các TI, Chống sét van 500kV.
Hoàn thành xây dựng và đóng điện vận hành công trình 02 ngăn xuất tuyến đường dây 220kV Sê san 3 và 3A, đưa nguồn từ các nhà máy thuỷ điện này lên lưới điện Quốc gia.
- Năm 2006, hoàn thành xây dựng và đóng điện vận hành công trình thay tụ bù dọc đường dây 500kV Pleiku – Dốc Sỏi, nâng công suất truyền tải từ 1000MVA lên 2000MVA.
- Năm 2009, hoàn thành xây dựng và đóng điện vận hành công trình 02 ngăn xuất tuyến đường dây 220kV Sê san 4 và 4A, tiếp tục bổ sung nguồn lên lưới điện Quốc gia.
Cuối năm 2009, hoàn thành xây dựng và đóng điện vận hành công trình “Nâng công suất Trạm biếp áp 500kV Pleiku gia đoạn I ”, lắp đặt thêm Máy Biến áp 500 kV thứ hai và các thiết bị đi kèm (MBA AT1). Đây là một trong những công trình đặc biệt cấp bách và quan trọng của ngành điện được Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia giao cho Công ty Truyền tải điện 3 trực tiếp thi công. Công trình đã hoàn thành với thời gian ngắn kỷ lục, chỉ gần hai tháng kể từ khi khởi công đến khi đóng điện vận hành thành công. Việc đưa máy biến áp 500kV AT1 này vào vận hành ngay lập tức đã phát huy hiệu quả, tránh quá tải cho máy biến áp 500kV AT2 đang vận hành trước đó.
- Năm 2010 Công ty Truyền tải điện 3 lại được cấp trên tin tưởng giao nhiệm vụ vụ khẩn trương thi công công trình Lắp MBA 500kV- 50MVA số 3 AT5 thuộc dự án “Nâng công suất Trạm biếp áp 500kV Pleiku gia đoạn II ”do Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia làm chủ đầu tư. Trạm biến áp 500kV Pleiku đảm nhận phần đấu nối nhị thứ. Công trình hoàn thành và đóng điện vào ngày 31/10/2010, nâng tổng dung lượng MBA tại TBA 500kV Pleiku lên thành 1.600 MVA. Đảm bảo chuyển tải hết nguồn công suất từ các nhà máy thủy điện trên khu vực các tỉnh Tây Nguyên lên hệ thống điện quốc gia.
- Năm 2011:
Thi công hoàn thiện sơ đồ vận hành công trình “Lắp máy biến áp 500kV số 3” như lắp đặt MC565, DCL 565-6, 565-8, TI 565, ngăn máy cắt vòng MC200, tủ điều khiển, tủ bảo vệ lộ tổng 220kV MBA AT5.
Thi công công trình lắp đặt máy biến áp 220kV thứ hai (AT4), đấu nối sơ đồ tối thiểu, đóng điện và đưa này vào vận hành an toàn.
- Năm 2012:
Thi công và đưa vào vận hành công trình nâng dung lượng bộ Tụ bù dọc 500 kV TBD505 xuất tuyến Pleiku đi Di Linh nâng khả năng tải của đường dây này từ 1000A lên 2000A.
Thi công hoàn thiện sơ đồ vận hành đầy đủ hệ thống phân phối 220kV và 110kV (lắp thêm các dao cách ly 220kV và lắp thêm thanh cái 110kV thứ 2 C21), thay thế các máy cắt 220kV, 110kV truyền động bằng khí nén bằng các máy cắt mới truyền động theo kiểu lò xo và thay dao cách ly 220kV, 110kV cũ bằng các dao cách ly thế hệ mới.
Ngoài ra trạm còn thi công thay nhiều các rơle bảo vệ thế hệ cũ bằng các role bảo vệ thế hệ mới làm việc tin cậy hơn; Cải tạo các mạch điều khiển, giám sát PLC phía 220kV, 110kV….
- Năm 2013: Thi công và đưa vào vận hành công trình nâng dung lượng bộ Tụ bù dọc 500 kV TBD502 xuất tuyến Pleiku đi Đắk Nông nâng khả năng tải của đường dây này từ 1000A lên 2000A
- Năm 2014: Hiện đường dây 500kV mạch 3 Pleiku – Mỹ Phước – Cầu Bông ( bắt đầu tháng 11 năm 2013) đang thi công, dự kiến sẽ đóng điện vận hành trong quý II năm 2014 này .
Đặc biệt là suốt cả quá trình thi công đều tuyệt đối đảm bảo an toàn về người và thiết bị và trạm vẫn được mang điện vận hành bình thường.
Qua quá trình thi công cũng như quản lý vận hành trạm đã có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và những biện pháp thi công tối ưu, rút ngắn thời gian cắt điện, tiết kiệm nguyên vật liệu và nhân công, làm lợi cho Công ty nói riêng và nhà nước nói chung hàng tỷ đồng.
Để đóng điện vận hành thành công các thiết bị trạm thời điểm ban đầu có thể nói không ngòi bút nào tả hết được nỗi gian truân, vất vả của CBCNV trạm. Buổi ban đầu còn muôn ngàn khó khăn, thiếu thốn mọi bề. Khung cảnh heo hút, cây cối rậm rạp, dân cư thưa thớt, nhìn quanh chỉ thấy toàn đồi núi trọc. Hầu hết CBCNV trạm khi đó đều ở ngoài Miền Bắc vào, một số ít ở khu vực Miền Trung lên. Lạ khí hậu nên ốm đau triền miên, mọi người phải gồng mình lên để thích nghi dần. Sợ nhất là căn bệnh sốt rét vẫn rình rập thường xuyên, những vốc thuốc queneel (Ký ninh) đều đặn ba tháng một lần mọi người phải uống để phòng nhưng vẫn không tránh khỏi bởi lũ muỗi đói đông và to như con ong rừng lúc nào cũng sẵng sàng xâu xé. Cả đơn vị hơn hai chục người mà mỗi ngày chỉ được dùng một khối rưỡi nước do một xe máy cày chở đến, nước này chỉ được dùng để nấu ăn và đun nước uống còn tắm giặt thì phải luồn rừng, leo dốc đi khoảng hai cây số mới đến được một máng nước nhỏ do người đồng bào Giarai ở đây đang dùng, nếu không làm dấu sẽ không nhớ đường mà về. Chợ búa không có, nhà ăn tập thể không có, tất cả CBCNV của trạm đều nhờ những người đi bán đồ ăn dạo, bữa có bữa không để mua thực phẩm rồi tự nấu ăn. Cơm thì bữa sống, bữa khê, canh thì bữa nhạt như nước ốc, bữa thì mặn chát, cá chỉ vàng khô cũng chỉ biết nướng. Nguyên do là các chú thợ điện nhà mình đều mới học ra trường, từ nhỏ đến lớn chưa biết nấu ăn bao giờ nay nới có dịp để trải nghiệm. Cái khắc nghiệt của thời tiêt Tây Nguyên như càng làm tăng thêm nỗi khó khăn, vất vả đó. Những ngày mưa to không có người bán hàng thì hôm đó chỉ ăn cơm với chút nước mắm đại dương và bát canh toàn quốc, không ra công trường được cũng không biết làm gì được ngoài đọc tài liệu, không sách báo, không ti vi, internet lại càng xa vời. Ngày nắng như đổ lửa, công trường bụi mù mịt vẫn bám sát công trình để tìm hiểu và làm quen với thiết bị, công nghệ đặng sau này biết ngõ mà vận hành. Buổi giải trí duy nhất là tối chủ nhật hàng tuần được xe của trạm (loại xe cứu thương của Liên Xô) chở xuống thị xã Pleiku cách đó gần hai mươi cây số, ai có mua sắm hoặc uống cà phê thì tùy đến đúng 21 giờ lại tập trung lên xe về khu tập thể trạm.
Khó khăn muôn trùng nhưng đội ngũ cán bộ, công nhân viên của trạm đã nỗ lực hết mình, phấn đấu vươn lên, vượt qua hết thảy mọi khó khăn, gian khổ, khẳng định trình độ chuyên môn, bản lĩnh nghề nghiệp của mình qua từng bước phát triển vươn lên của trạm. Góp phần rất lớn vào sự lớn mạnh của ngành điện Việt Nam ta.
PHẦN BA
CÁC THIẾT BỊ LẮP ĐẶT TRONG TRẠM
PHẦN BỐN
CÁC SỐ LIỆU VỀ ĐIỆN NĂNG TRUYỀN TẢI QUA TRẠM
VÀ CẤP CHO PHỤ TẢI KHU VỰC
Sản lượng điện năng truyền qua trạm (Chỉ có số liệu của các năm sau):
Năm 2013: 22.224.818.190 kWh
Năm 2012: 20.600.914.090 kWh
Năm 2011: 20.789.914.021 kWh
Năm 2010: 22.252.626.305 kWh
Năm 2009: kWh (chưa có số liệu)
Năm 2008: 17.149.581.150 kWh
Năm 2007: 16.839.638.704 kWh
Năm 2006: 16.190.380.550 kWh
Năm 2005: 16.738.040.038 kWh
PHẦN NĂM
CÁC TỔ CHỨC ĐOÀN THỂ
Ngay sau khi Trạm Biến áp 500kV Pleiku được thành lập thì các tổ chức đoàn thể như Công đoàn và Chi đoàn thanh niên cũng được thành lập và đều mang tên Công đoàn Trạm Biến áp 500kV Pleiku và Chi đoàn Trạm Biến áp 500kV Pleiku. Riêng chi bộ mãi đên ngày 12 tháng 03 năm 1995 mới thành lập và được mang tên “Chi bộ Truyền tải điện Tây Nguyên” do đồng chí Trịnh Văn Hải – Trạm Biến áp 500KV Pleiku đảm nhiệm Bí thư chi bộ. Chi bộ Truyền tải điện Tây Nguyên – Đảng ủy Sở Truyền tải điện I, thuộc Đảng ủy dân chính Đảng tỉnh Quảng Nam –Đà Nẵng. Ban đầu chỉ có 05 đảng viên: Gồm có đồng chí: Trịnh Văn Hải, Dương Danh Hiền (Nhân viên vận hành trạm), Huỳnh Đức Trung (nhân viên lái xe) thuộc đơn vị Trạm Biến áp 500kV Pleiku, đồng chí Hà Hải Đăng (nhân viên kế toán) thuộc Đội đường dây 500kV Kon Tum và đồng chí Nguyễn Xuân Thành (nhân viên vận hành đường dây) thuộc Đội đường dây 500kV Đăk Hà – Kon Tum. Năm 1998 Trạm Biến áp 500kV Pleiku trực thuộc Truyền tải điện Pleiku - Công ty truyền tải điện 3 thì “Chi bộ Truyền tải điện Tây Nguyên” được tách ra và thành lập chi bộ mới mang tên “Chi bộ Trạm Biến áp 500kV Pleiku, Truyền tải điện Pleiku, Truyền tải điện Đăk Lăk” – Đồng chí Hoàng Xuân Phong đảm nhiệm Bí thư chi bộ, Chi bộ Trạm Biến áp 500kV Pleiku, Truyền tải điện Pleiku, Truyền tải điện Đăk Lăk lúc này trực thuộc Đảng ủy dân chính đảng tỉnh Khánh Hòa. Năm … Trạm Biến áp 500kV Pleiku trực thuộc Công ty truyền tải điện 3 thì “Chi bộ Trạm Biến áp 500kV Pleiku, Truyền tải điện Pleiku, Truyền tải điện Đăk Lăk” được tách ra và thành lập Chi bộ Trạm Biến áp 500kV Pleiku cho tơi ngày nay và hiện thuộc diện quản lý của Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương tại Hà Nội.
Chi bộ, công đoàn và chi đoàn thanh niên của trạm luôn kề vai sát cánh cùng chính quyền xây dựng “ngôi nhà Trạm Biến áp 500kV Pleiku” thành một khối thống nhất, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của tất cả CBCNV trạm, đưa trạm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, vững bước tiến lên cùng với các đơn vị bạn đưa ngành điện Việt Nam phát triển không ngừng, phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước.
Ngoài nhiệm vụ chính trị trọng tâm là quản lý vận hành trạm, quản lý Kho Vật tư Tây Nguyên của Công ty ra trạm còn là một trong những đơn vị đi đầu trong các phong trào hoạt động thể dục thể thao, văn hóa văn nghệ và các hoạt động từ thiện, đền ơn đáp nghĩa tại địa phương, góp phần không nhỏ thúc đẩy nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của các tầng lớp nhân dân tỉnh Gia Lai, nơi đơn vị đóng quân.
PHẦN SÁU
CÁC HÌNH THỨC KHEN THƯỞNG
(Số liệu do đồng chí Ngọc Sơn cung cấp)
Qua quá trình quản lý vận hành, thực hiện nhiệm vụ được giao trong công tác hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, sự phấn đấu hết mình của tập thể CBCNV trong toàn đơn vị, đảm bảo cung cấp điện an toàn liên tục góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của cả nước. Trạm biến áp 500kV Pleiku đã được các cấp, các ngành và Nhà nước tặng các danh hiệu, hình thức khen thưởng cụ thể như sau:
Năm 2002 được:
- Huân chương Lao động hạng 3 - Quyết định số 337/2002/QĐ/CTN ngày 13/6/2002 của Chủ tịch nước.
- Bằng khen của Bộ Công nghiệp - Quyết định số 430/QĐ-VP ngày 19/3/2003 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp.
Năm 2003 được:
- Danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc - Quyết định số 4455/EVN-TTĐ3-VP ngày 31/12/2003 của Giám đốc Công ty Truyền tải điện 3.
Năm 2004 được:
- Bằng khen của Bộ Công nghiệp - Quyết định số 1070/QĐ-VP ngày 24/3/2005 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp.
- Danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc - Quyết định số 3491/QĐ-EVN-TTĐ3-12 ngày 29/12/2004 của Giám đốc Công ty Truyền tải điện 3
Năm 2005 được:
- Bằng khen Bộ Công nghiệp - Quyết định số 37/QĐ-BCN ngày 06/01/2006 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp.
- Danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc - Quyết định số 4535/QĐ-EVN-TTĐ3-12 ngày 12/12/2005 của Giám đốc Công ty Truyền tải điện 3.
Năm 2006 được:
- Bằng khen cho tập thể Trạm biến áp 500kV Pleiku có thành tích xuất sắc thi công công trình lắp đặt tụ bù dọc đường dây 500kV Pleiku – Đà Nẵng mạch 2 - Quyết định số 1248/QĐ-EVN-TĐTT ngày 13/6/2006 của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam.
- Bằng khen cho tập thể Trạm biến áp 500kV Pleiku đã có thành tích xuất sắc xây dựng đường dây 500kV mạch 2 Bắc Nam - Quyết định số 946/QĐ-EVN-TĐTT ngày 08/5/2006 của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam.
- Danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc - Quyết định số 3256/QĐ-TTĐ3-12 ngày 29/12/2006 của Giám đốc Công ty Truyền tải điện 3
Năm 2007 được:
- Cờ thi đua xuất sắc - Quyết định số 160/QĐ-TTĐ3-12 ngày 23/01/2008 của Giám đốc Công ty Truyền tải điện 3.
- Danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc - Quyết định số 165/QĐ-TTĐ3-12 ngày 23/01/2008 của Giám đốc Công ty Truyền tải điện 3.
Năm 2008 được:
- Danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc - Quyết định số 75/QĐ-TTĐ3-12 ngày 16/01/2009 của Giám đốc Công ty Truyền tải điện 3.
- Bằng khen cho Trạm biến áp 500kV Pleiku đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua năm 2008 - Quyết định số 65/QĐ-UBND ngày 16/01/2009 của Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai.
Năm 2009 được:
- Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ - Quyết định số 1486/QĐ-TTg ngày 17/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
- Cờ Thi đua xuất sắc - Quyết định số 10/QĐ-NPT ngày 08/01/2010 của Tổng Công ty Truyền tải điện Quốc gia.
- Danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc - Quyết định số 1406/QĐ-EVN ngày 31/12/2009 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
- Bằng khen trong công trình Nâng công suất trạm 500kV Pleiku - Quyết định số 1355/QĐ-EVN ngày 24/12/2009 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
- Danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc cho tổ Vận hành và tổ Bảo vệ - Vệ sinh công nghiệp thuộc Trạm biến áp 500kV Pleiku - Quyết định số 443/QĐ-UBND ngày29/3/2010 của UBND tỉnh Gia Lai.
Năm 2010 được:
- Bằng khen cho tập thể đã có thành tích xuất sắc trong công tác năm 2010 - Quyết định số 0105/QĐ-BCT ngày 10/01/2011 của Bộ Công thương.
- Cờ thi đua xuất sắc - Quyết định số 1341/QĐ-EVN ngày 31/12/2010 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
- Danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc - Quyết định số 1342/QĐ-EVN ngày 31/12/2010 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
Năm 2011 được:
- Cờ thi đua xuất sắc - Quyết định số 1230/QĐ-EVN ngày 21/12/2011 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
- Danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc - Quyết định số 1231/QĐ-EVN ngày 21/12/2011 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
Năm 2012 được:
- Huân chương Lao động hạng Nhì - Quyết định số 1610-QĐ/CTN ngày 10/10/2002 của Chủ tịch nước.
- Bằng khen Bộ công thương - Quyết định số 4377/QĐ-BCT ngày 01/8/2012 của Bộ Công thương.
- Bằng khen Tập đoàn điện lực Việt nam - Quyết định số 1313/QĐ-EVN ngày 28/12/2012 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
Năm 2013 được:
- Bằng khen Bộ công thương - Quyết định số 183/QĐ-BCT ngày 11/01/2013 của Bộ Công thương.
- Huân chương lao động hạng Nhì - Quyết định số 1610-QĐ/CTN ngày 10/10/2012.
Trên đây là bản thảo, rất mong được anh em trong trạm góp ý để nội dung được phong phú hơn.
Xin trân trọng.