Ẩm thực

“Ẳn uống” hay “ẩm thực” trong tiếng Việt là từ ghép, tương đương sở hữu các trong khoảng trong tiếng Anh: “Food and Drink”, tiếng Pháp: “Le oire et le Manger”, tiếng Nhật: “Nomikui” (ẩm thực) hay “Kuinomi” (ăn uống). Tùy theo quan niệm về ẩm thực của từng dân tộc mà trong trong khoảng ngữ này, thứ tự xếp đặt 2 nguyên tố “ăn” và “uống” mang khác nhau.

Theo Nguyễn Văn Dương nghiên cứu về ẩm thực trong ngôn ngữ, thì từ “ăn” trong tiếng Việt có số lượng ngữ nghĩa và số lượng trong khoảng ghép rất phong phú, sở hữu đến 15/20 ngữ nghĩa được nêu trong tự vị tiếng Việt với liên quan đến “ăn”. Sở dĩ từ “ăn” chiếm vị trí to trong tiếng nói và tư duy người Việt vì trong khoảng xưa cho tới đầu thế kỉ XX, nước ta đất hẹp, công nghệ kĩ thuật chưa tăng trưởng, mức sống còn rẻ, vì thế loại ăn luôn là yếu tố quan yếu nhất: “Có thực mới vực được đạo”, “Dĩ thực vi tiên”… bên cạnh ăn thì uống không chiếm vị trí quan yếu trong tiếng nói Việt Nam. Ngoài nghĩa thường ngày là uống nước cho hết khát, trong khoảng “uống” trong từ ghép “ăn uống” với nghĩa là uống rượu. Hiện giờ, trong ngôn ngữ đời thường tiêu dùng từ “nhậu” để chỉ việc uống rượu. Bên cạnh đó, trong các từ điển của Huỳnh Tịnh Của (1895 1896), của Génibrel (1898), thì “nhậu” chỉ có tức là uống, ko chỉ là uống rượu. Tuy nhiên do chuyện rượu chè thái quá của phổ biến người, “nhậu” trở thành một hiện tượng không lành mạnh, và bị xem là thói xấu. Trong Việt Nam tân tự vị của Thanh Nghị (1952) thì trong khoảng “nhậu” đã sở hữu nghĩa rõ hơn là “Uống, thường là uống rượu”.