2019-2020
Biết được:
"Luật Hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quy định tội phạm, xác định hình phạt với các tội phạm nhằm đấu tranh chống tội phạm, loại trừ mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội. Luật Hình sự bao gồm hệ thống những quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm, đồng thời quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy."
Luật Hình sự được xem là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật vì nó có đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng biệt.
Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật của ngành luật đó điều chỉnh.
Các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật Hình sự tác động tới là đối tượng điều chỉnh của luật hình sự.
Luật Hình sự chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội khi có tội phạm xảy ra - đó cũng chính là các quan hệ PLHS
"Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm. Đây là căn cứ để phân biệt Luật Hình sự với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật".
Điểm: 8.7đ
2019-2020
Hiểu về đối tượng, phương pháp nghiên cứu, vị trí của môn học;
Hiểu được sự hình thành và xu thế phát triển của khoa học Luật so sánh;
Vận dụng và xác định được các ứng dụng của Luật so sánh;
Có khả năng phân tích, so sánh và đánh giá nguồn luật của các quốc gia khác nhau trong quá trình nghiên cứu các hệ thống pháp luật;
Có kiến thức về lịch sử hình thành, phát triển của các truyền thống pháp luật chủ đạo trên thế giới và xu thế chung của sự phát triển;
Nhận biết và giải thích về những chế định pháp luật đặc thù trong các hệ thống pháp luật điển hình của các truyền thống pháp luật chủ đạo.
Có khả năng vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn và đưa ra giải pháp chuyên môn để giải quyết các tình huống;
Điểm: 9.0đ
Ý nghĩa của việc học tập môn học.
Trang bị cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về sự ra đời của Đảng, về đường lối của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đường lối của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Việc nắm vững những nội dung đó sẽ nâng cao năng lực tư duy để có thể tự giải đáp, ứng xử và kiên định trước một số vấn đề thường gặp trong đời sống chính trị phức tạp.
Bồi dưỡng cho sinh viên niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, củng cố lập trường chính trị, trung thành với lý tưởng của Đảng, có định hướng phấn đấu theo mục tiêu, lý tưởng và đường lối của Đảng; nâng cao ý thức trách nhiệm công dân trước những nhiệm vụ trọng đại của đất nước.
Sinh viên có cơ sở vận dụng kiến thức chuyên ngành để chủ động, tích cực giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội...theo đường lối, chính sách của Đảng. Đã là người Việt Nam thì ai cũng phải thực hiện pháp luật của nhà nước và đường lối của Đảng. Quyền lợi và trách nhiệm của từng người không ra ngoài quỹ đạo đó. Vì vậy, nghiên cứu và học tập đường lối cách mạng của Đảng là vấn đề thiết thực với tất cả mọi người.
2019-2020
Điểm: 9.3đ
Đường lối Cách mạng của ĐSVN:
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là khái niệm chỉ hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách mạng Việt nam do Đảng Cộng sản đề ra trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt nam
Đường lối cách mạng được thể hiện qua cương lĩnh, nghị quyết của Đảng.
Đường lối cách mạng của Đảng rất toàn diện và phong phú, bao gồm đường lối đối nội và đường lối đối ngoại được đề ra kể từ khi Đảng ra đời:
+ Có đường lối chính trị chung, xuyên suốt cả quá trình cách mạng như: đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đường lối kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, đường lối đại đoàn kết dân tộc…
+ Có đường lối cho từng thời kỳ lịch sử như: đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, đường lối khởi nghĩa giành chính quyền (1939-1945), đường lối cách mạng miền Nam( 1954-1975), đường lối đổi mới từ 1986 đến nay…
+ Có đường lối cách mạng vạch ra cho từng lĩnh vực hoạt động như: đường lối công nghiệp hóa, đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đường lối phát triển văn hóa- văn nghệ, đường lối đối ngoại, đường lối hội nhập kinh tế quốc tế…
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt nam.
Sự lãnh đạo của Đảng là thuật ngữ hàm chứa việc Đảng đề ra đường lối và tổ chức quần chúng thực hiện đường lối. Như vậy, trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, việc họach định đường lối là công việc quan trọng hàng đầu.
Qua đó, đường lối quyết định vị trí, uy tín của Đảng đối với quốc gia dân tộc, tác động đến việc xác nhận vai trò lãnh đạo của Đảng với toàn dân tộc. Sự đúng, sai của đường lối sẽ dẫn đến sự “thành, bại” của cách mạng, sự “sống còn” của Đảng. Vì vậy, đường lối của Đảng phải được hoạch định trên cơ sở vận dụng một cách sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, trên cơ sở xác định rõ yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới.
2019-2020
Lý luận chung về tội phạm học.
“Tội phạm học là lĩnh vực kiến thức về vấn đề xã hội của tội phạm”.
Tội phạm học chỉ được xem là ngành hoặc lĩnh vực nghiên cứu vấn đề xã hội của tội phạm, tức là nghiên cứu tội phạm và hành vi phạm tội như là hiện tượng xã hội.
Định nghĩa khác về tội phạm học được đưa ra thể hiện quan điếm nhấn mạnh đối tượng nghiên cứu là nguyên nhân của tội phạm và vai trò của tội phạm học trong việc tìm ra nguyên nhân của tội phạm. Đó là định nghĩa: "Tội phạm học là sự nghiên cứu về nguyên nhân của tội phạm”.
Cũng trong thế kỉ XX xuất hiện hàng loại định nghĩa khác về tội phạm học mà trong đó thể hiện quan điểm nhấn mạnh tính khoa học của tội phạm học như là đặc điểm riêng biệt. Tiêu biểu cho loại này là định nghĩa: "Tội phạm học là khoa học nghiên cứu về tội phạm”.
Đặc điểm cơ bản của tội phạm học:
Thứ nhất là đặc điểm về đối tượng nghiên cứu độc lập của tội phạm học, bao gồm tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm hiện thực và kiểm soát tội phạm hiện thực;
Thứ hai là đặc điểm về khoa học liên ngành của tội phạm học;
Thứ ba là đặc điểm về khoa học thực nghiệm hay cũng có thể gọi là đặc điểm về phương pháp nghiên cứu thực nghiệm của tội phạm học.
Thứ tư, là đặc điểm về mục đích phòng ngừa tội phạm của tội phạm học. Đây là những đặc điểm để phân biệt tội phạm học với các ngành khoa học khác, đặc biệt là các khoa học có liên quan đến tội phạm.
Điểm: 8.8đ
2019-2020
Luật hình sự phần các tội phạm.
Các yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm: khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm. Căn cứ vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được cấu thành tội phạm phản ánh, có thể chia cấu thành tội phạm thành: cấu thành tội phạm cơ bản; cấu thành tội phạm tăng nặng; cấu thành tội phạm giảm nhẹ. Các dạng cấu thành tội phạm cơ bản trong Bộ luật hình sự.
Cấu thành tội phạm cơ bản là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội. Đó là cấu thành tội phạm bao gồm những dấu hiệu mô tả tội phạm và là cơ sở pháp lý cho việc định tội danh và phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Đây là các cấu thành tội phạm được thể hiện ở khoản 1 của đa số các tội phạm như tội trộm cắp tài sản (khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự), tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng (khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự)….
Căn cứ vào cấu trúc của cấu thành tội phạm có thể chia cấu thành tội phạm thành: cấu thành tội phạm hình thức; cấu thành tội phạm vật chất; cấu thành tội phạm hỗn hợp. Trong đó:
Cấu thành tội phạm hình thức
Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có duy nhất một yếu tố bắt buộc về mặt khách quan của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi gây thiệt hại cho xã hội hoặc hành vi tạo ra khả năng gây ra các thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Hành động phạm tội là làm một việc mà pháp luật hình sự cấm không được làm. Ví dụ: hành động giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự); cướp tài sản (Điều 133 Bộ luật hình sự)…..
Cấu thành tội phạm vật chất
Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm mà các dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, trong đó:
Cấu thành tội phạm hỗn hợp
Cấu thành tội phạm hỗn hợp là loại cấu thành tội phạm mà các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm hình thức, vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất.
Điểm: 8.7đ