Lời Nói Đầu
NHỮNG NGƯỜI BẠN ĐƯỜNG
Cũng như thức ăn cần thiết cho cuộc sống con người thế nào thì những người bạn đường cũng thực sự cần thiết có nhau như vậy. Quả thực, danh từ “companions” bắt nguồn từ hai từ ngữ trong tiếng Latinh: “com” nghĩa là “với cùng”, và “panis” nghĩa là “bánh”. Những người bạn đường là những con người nuôi dưỡng tâm hồn, tinh thần và thể xác chúng ta. Đồng thời họ cũng là những người mà chúng ta có thể cùng chia sẻ tấm bánh.
Có lẽ những câu chuyện cảm động nhất trong Kinh Thánh là những câu chuyện về tình bạn, chẳng hạn: Bữa Tiệc Ly, Tiệc cưới Cana, việc chia sẻ bánh và cá, và việc Đức Giê-su bẻ bánh trao cho các môn đệ trên đường Em-mau. Các tình tiết về tình bạn với Đức Giê-su càng diễn tả nhiều hơn về lòng thương xót, tình yêu thương, sự khôn ngoan, sự đau khổ và niềm hy vọng của Người. Khi đi cầu nguyện trên núi Ô-liu, Đức Giê-su khao khát biết bao tình bạn từ phía các Tông Đồ. Thế nhưng họ đã bỏ rơi Người. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã gửi Thần Khí đến để đốt cháy lòng các Tông Đồ khiến các ông trở thành những người bạn trung tín với Đức Giê-su và với nhau.
Trải dài suốt quá trình lịch sử, đã có biết bao bạn đường trung tín khác bước theo Đức Giê-su và các Tông Đồ. Các vị thánh và những nhà thần bí này đã đi trên cùng một hành trình bắt đầu từ việc hoán cải, qua đau khổ và đến phục sinh. Các ngài đã được khởi hứng bởi những mẫu gương nhân đức thánh thiện đi trước, vậy thì chính bạn cũng có thể xem các ngài như những người bạn đường trên hành trình thiêng liêng của mình.
Những người bạn đường trên bước đường hành hương là sự đáp trả khát vọng thiêng liêng của các Ki-tô hữu. Bước đường này giúp cho những lời giảng dạy đầy thiêng liêng của những nhà thần bí và sự khôn ngoan của những vị lãnh đạo có thể giúp ích cho chúng ta trên bước đường hành hương. Hy vọng rằng bạn sẽ cảm thấy được nâng đỡ nhiều hay cũng có thể được thách đố và được kiên định hơn nhờ chính người bạn là tâm hồn của bạn trên hành trình thiêng liêng, sau khi bạn hoàn tất các bài suy niệm cuối cùng.
Sự khao khát đời sống tâm linh được thể hiện một cách rõ nét trong suốt hai mươi năm qua là một dấu hiệu rất lớn cho việc canh tân đời sống Ki-tô hữu. Người ta đã dự các chương trình tĩnh tâm và tham gia các buổi tọa đàm về những chủ đề thiêng liêng. Con số các vị linh hướng hiện có không đủ đáp ứng cho người có nhu cầu. Mối quan tâm đến đời sống và bút tích của các thánh và những nhà thần bí không ngừng gia tăng vì con người đang ra sức tìm kiếm cho mình những khuôn mẫu trọn vẹn đời sống Ki-tô hữu thánh thiện.
Carl Koch chủ biên
Những đề nghị cho việc cầu nguyện với thánh I-nhã
Tạo ra một khoảng không thánh thiêng.
Hãy mở lòng ra trước sức mạnh của việc cầu nguyện.
Xem trước mỗi bài suy niệm trước khi bắt đầu cầu nguyện.
Sử dụng các bài suy niệm cho nhóm cầu nguyện
--------------------------------
Cầu nguyện với thánh I-nhã Loyola thì hơn đọc một cuốn sách nói về linh đạo của ngài. Nhưng mục đích của cuốn sách này là nhằm liên kết bạn vào đời sống cầu nguyện theo cách thánh I-nhã đã thực hiện qua các biến cố và chủ điểm trọng tâm trong kinh nghiệm của ngài. Mỗi một bài suy niệm cũng có thể soi sáng thêm cho bạn hiểu hơn về linh đạo của ngài và dẫn đưa bạn đến chỗ phản tỉnh lại kinh nghiệm của chính bạn.
Cuốn sách Cầu Nguyện với Thánh I-nhã đặt ra mục tiêu là giúp bạn khám phá ra linh đạo sâu sắc của thánh I-nhã và chính bạn phải hòa nhập vào tinh thần và sự khôn ngoan của thánh nhân ngay trong mối tương quan của bạn với Chúa, mối tương quan với anh chị em mình và với chính tâm trí của bạn.
Hãy gặp gỡ thánh I-nhã Loyola, một người bạn dũng cảm và đầy sức cuốn hút trên bước đường hành hương của bạn, qua việc đọc phần Giới Thiệu của cuốn sách này. Nó sẽ cung cấp cho bạn đôi nét về tiểu sử của thánh I-nhã và các chủ đề chính về linh đạo của ngài.
Một khi đã gặp gỡ được thánh I-nhã, bạn sẽ sẵn sàng đi vào cầu nguyện với ngài và gặp gỡ với Thiên Chúa, cũng như gặp gỡ anh chị em mình và ngay chính bản thân bạn theo những phương cách hết sức mới mẻ và diệu kỳ. Để giúp cho phần cầu nguyện của bạn, dưới đây chúng tôi xin đề nghị một số gợi ý được xem như là truyền thông của linh đạo Ki-tô giáo.
Đức Giê-su nói: “Khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nới kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh”(Mt 6,6). Việc cầu nguyện cá nhân tốt nhất nên thực hiện ở một nơi nào đó mà bạn có được sự riêng tư và thinh lặng, hai điều này có thể được kể như quý giá đối với những con người bận bịu. Nếu không có được một khoảng riêng tư và sự thinh lặng thì hãy cố tạo ra trong chính con người bạn một nơi an toàn, có thể trong khi bạn đang lái xe đi làm hay trở về từ công sở, khi đang phải ngồi phòng làm việc của một nha sĩ, hoặc trong lúc bạn chờ đợi một ai đó. Hãy làm những điều tốt nhất khi có thể, bạn hãy ý thức rằng một Thiên Chúa giàu lòng xót thương đang hiện diện trên mọi nẻo đường. Cho dù những bài suy niệm trong cuốn sách này được áp dụng cho cá nhân hay tập thể đi nữa, nên cố gắng tạo ra một hình thức cầu nguyện có sử dụng nến, âm nhạc suy niệm, một cuốn Kinh Thánh được mở ra, hoặc tượng Chúa chịu nạn…
Mọi kinh nghiệm của con người đều mang ý nghĩa tôn giáo. Cuộc sống của chúng ta tràn ngập sự hiện diện của Thiên Chúa. Vì thế, hãy tự nhắc nhở mình rằng Thiên Chúa đang hiện diện cùng với bạn ngay lúc bạn bắt đầu giờ cầu nguyện. Đừng lo lắng về những chia trí của ban. Nếu có điều gì cứ liên tục xâm nhập bào bạn trong suốt giờ cầu nguyện, hãy dành ra ít phút để tâm sự với Chúa về những điều ấy. Phải tỏ ra hết sức mềm dẻo vì Thần Khí Thiên Chúa sẽ thổi ở nơi Ngài muốn.
Việc chiêm niệm có thể soi trí và làm gia tăng tầm nhìn của bạn. Hãy mở ra những cái nhìn mới về Thiên Chúa, về con người và về chính bản thân bạn. Khi mở lòng ra với Chúa Thánh Thần, thì nhiều cảm xúc khác nhau sẽ xuất hiện, chẳng hạn như nỗi buồn đến từ những ký ức tế nhị hay niềm vui từ những kỷ niềm vọng về. Chính những cảm xúc của chúng ta là những thông điệp đến từ Thiên Chúa, chúng có thể nói với chúng ta nhiều điều về khát vọng tìm kiếm đời sống tâm linh. Đồng thời, việc cầu nguyện gia tăng ước muốn để giúp ta sống. Qua cầu nguyện, Thiên Chúa có thể đụng chạm đến ước muốn của ta và bổ sức cho ta để ta sống theo những điều chúng ta nhận thấy là đúng.
Cuối cùng, nhiều bài suy niệm trong cuốn sách này sẽ mời gọi bạn sử dùng trí nhớ, sự tưởng tượng và những biến cố trong cuộc sống như những chủ đề cầu nguyện. Các nhà thần bí và các thánh đã nhận thấy rằng các ngài đã phải sử dụng tất cả mọi phương cách để nhận biết Thiên Chúa hơn.
Trong thực tế, Thiên Chúa vẫn tiếp tục nói với mỗi chúng ta và không ngừng đụng chàm đến chúng ta. Chỉ có điều ta phải học cách lắng nghe và cảm nhận nhờ vào tất cả mọi phương tiện và Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Bạn hãy bước bào giờ cầu nguyện với một tâm trí, một tấm lòng và sự khao khát, ước ao đầy cởi mở.
Sau khi đã đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, hãy dành ra ít phút xem trước các trích đoạn về thánh I-nhã và đặc biệt là phần hoạt động suy gẫm. Trong mỗi bài suy niệm có đề cập đến nhiều hoạt động suy gẫm, bởi vì nhiều cách thức cầu nguyện khác nhau sẽ cuốn hút đến nhiều tính cách khác nhau hay nhiều nhu cầu cá nhân.
Lưu ý rằng không nhất thiết phải thực hiện hết các công việc suy gẫm phản tỉnh trong mỗi giờ cầu nguyện. Chính vì thế, bạn có thể chọn một hoặc hai điểm suy gẫm cho mỗi một lần sử dụng một bài suy niệm. Đừng tỏ ra bối rối khi không hoàn thành tất cả các điểm suy gẫm.
Mỗi bài suy niềm đưa ra cho bạn một câu chuyện về thánh I-nhã và một bài trích đoàn từ những văn bản của ngài. Xin hãy dành thời gian đọc kỹ. Nếu có một cụm từ đặc biệt nào đó đánh động bạn, thì hãy ở lại đó để hưởng nếm những tình cảm, ý nghĩa và sự quan tâm của câu ấy.
Sau các trích đoạn về thánh I-nhã là phần suy tư phản tỉnh ngắn dưới dạng chú giải, nhằm đưa ra một viễn cảnh cho các trích đoạn. Tiếp đến là nhiều suy niệm về các trích đoạn cũng như chủ đề của bài cầu nguyện. Có thể bạn đã quen với nhiều phương pháp suy niệm khác nhau, nhưng trong trường hợp bạn không có phương pháp nào, hãy tham khảo một số phương pháp được một ta cách ngắn gọn dưới đây: tuy nhiên ở đây chúng tôi vẫn xin đề cập đến các cách suy niệm một cách ngắn gọn phòng khi bạn chưa được biết đến.
Lời cầu nguyện ngắn được lặp đi lặp lại hay mantra. Một cách thức để tập trung vào cầu nguyện của bạn là sử dụng một mantra, hay “một lời nguyện”. Lời cầu nguyện này có thể là một từ đơn lẻ hoặc một câu được trích từ các phần trích đoạn về I-nhã hay từ Kinh Thánh. Chẳng hạn, một lời nguyện cho một bài suy niệm về sự từ bỏ để theo thánh ý Chúa có thể là “Lạy Chúa, xin hãy lấy đi và nhận lấy trọn cả tự do của con” hoặc chỉ đơn giản là “Lạy Chúa, xin hãy lấy đi.” Lặp đi lặp lại một cách chậm rãi trong sự hài hòa với hơi thở của bạn, lời nguyện này giúp bạn đặt trọng tâm vào lý trí và con thánh I-nhã mình trên một hành động hay đặc trưng của Thiên Chúa.
Lời Chúa (Lectio divina): Dạng suy niệm này là “việc thực tập thiêng liêng”, một sự suy niệm tập trung vào Lời Chúa hay vào sự khôn ngoan của một tác giả thiêng liêng nào đó. Thường thì trong phần lectio divina, bạn được mời đọc các đoạn văn nhiều lần và sau đó tập trung vào một hoặc hai câu, suy nghĩ về ý nghĩa của các câu đó đối với vạn và hiệu quả của chúng trên bạn. Lectio divina thường kết thúc với một quyết tâm.
Suy niệm theo hướng dẫn. Trong mẫu suy niệm kiểu này, trí tưởng tượng của chúng ta giúp chúng ta xem xét những hành động thay đổi và những kết quả thích hợp. Trí tưởng tượng giúp chúng ta trải qua những cách thức mới trong việc nhận ra Thiên Chúa, nhận ra những người xung quanh ta và chính bản thân chúng ta cũng như thiên nhiên. Khi Đức Giê-su kể cho những người đi theo Ngài nghe các dụ ngôn và các câu chuyện, Ngià đã thu hút được trí tưởng tượng của họ. Trong tập sách này, bạn được mời đi theo các bài suy niệm theo phương pháp hướng dẫn.
Cách thức để thực hiện bài suy niệm theo hướng dẫn, là đọc cảnh tượng hoặc câu chuyện nhiều lần, cho tới khi bạn nắm được dàn ý và có thể nhớ lại được khi bạn đi vào suy gẫm. Hoặc trước khi vào cầu nguyện, bạn có thể thâu bài suy niệm vào một cuốn băng cassette. Nếu như vậy, xin hãy nhớ đặt các điểm dừng cho phần suy gẫm giữa các cụm từ và phải nói với giọng điệu, nhịp điệu êm ái, chậm rãi. Tiếp đến, trong suốt khoảng thời gian cầu nguyện, sau khi đã hoàn tất các phần trích đoạn và phần chú giải suy gẫm, bạn có thể mở đọan thâu về suy niệm lên, bạn được dẫn dắt qua nó (đoạn thâu). Nếu nhận thấy giọng điệu của mình gây ra nhiều chia trí thì hãy nhờ một ai đó đọc vào cuốn băng cho bạn.
Kiểm tra về sự nhận biết: những điều suy gẫm thường sẽ yêu cầu bạn kiểm tra xem Thiên Chúa đã bà đang nói với bạn như thế nào cả trong những kinh nghiệm quá khứ và hiện tại – mặt khác, những suy gẫm yêu cầu bạn kiểm tra ý thức của bạn về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời bạn.
Viết nhật ký: viết là một quá trình khám phá. Khi bạn viết trong một khoảng thời gian dài, diễn đặt một cách trung thực tất cả những cải ở trong đầu óc và con tim của bạn, bạn sẽ khám phá ra được nhiều về con người thật của mình, về mối tương qua của bạn với Chúa như thế nào và về những điều khao khát thẳm sau ẩn chứa trong cõi lòng bạn, và nhiều điều khác nữa. Trong một số phần suy gẫm, bạn được đề nghị viết một bài đối thọai với Đức Giê-su hay một người nào đó. Nếu quả thực bạn chưa bao giờ sử dụng việc viết lách như một phương tiện để suy niệm, thì hãy cố thử xem. Dành một cuốn sổ đặc biệt để viết nhật ký. Nếu ước muốn, bạn cũng có thể trở lại với những phần ghi chép của mình vào một lúc nào đó trong tương lai để kiểm tra về sự hiểu biết của bạn.
Hành động: thỉnh thoảng, một suy gẫm sẽ yêu cầu bạn hát một bài thánh ca mình yêu thích, đi dạo, hay thực hiện một vài hoạt động thể lý nào đó. Hành động có thể trở thành những hình thức cầu nguyện đầy ý nghĩa.
Nếu bạn mong muốn sử dụng các bài cầu nguyện này cho cầu nguyện tập thể, một số đề nghị sau đây có thể giúp ích: (trong cộng đoàn)
Đọc chủ đề bài cầu nguyện cho cả nhóm. Mời gọi nhóm đi vào sự hiện diện của Chúa bằng một tiền nguyện ngắn gọn. Mời một hoặc hai tham dự viên đọc một hoặc cả hai phần trích đoạn. Nếu đọc cả hai phần trích đoạn, bạn hãy lưu ý đến điểm dừng giữa hai đoạn.
Phần chú giải suy gẫm phản tỉnh có thể được dùng như một trích đoạn, hay cũng có thể bỏ đi, tùy thuộc vào nhu cầu và sở thích riêng của từng nhóm.
Chọn một trong số nhiều các hình thức suy gẫm cho nhóm bạn. Dành đủ thời gian cho nhóm đẻ nguyện gẫm, để lặp lại lời nguyện trọng tâm hay lời cầu nguyện, để hoàn thành lời nguyện một cách thuần thục (lectio divina), hay để hoàn thiện phần kiểm tra về sự nhận biết (hiểu biết). Tùy thuộc vào nhóm của bạn và khoảng thời gian có sẵn, bạn có thể mời các tham dự viên chia sẻ những điều đã suy gẫm, những phản hồi hoặc những đề nghị của họ đối với nhóm.
Đọc đoạn Kinh Thánh có thể giúp ích như một bài tóm tắt của giờ suy niệm.
Nếu phần kết là một lời cầu nguyện theo công tức hay một Thánh Vịnh, có thể yêu cầu cả nhóm cùng đọc. Hay cũng có thể bạn mời các tham dự viên dâng lời nguyện tự phát để kết thúc.
Bây giờ thì bạn đã sẵn sàng để bắt đầu việc cầu nguyện với thánh I-nhã Loyola, một người bạn đường trung tín và luôn qua tâm săn sóc đến bước đường trên hành trình thiêng liêng của bạn. Trong nam thế kỷ qua, thánh I-nhã đã lôi kéo được vô số người tìm đến một mối quan hệ gần gũi hơn với Thiên Chúa. Hy vọng rằng bạn sẽ tìm thấy ngài như một người bạn đường đích thực của linh hồn mình.
Carl Koch chủ biên
Thanh Luyện Và Soi Sáng Tại Montserat Và Maresa
Hành hương đến Đất Thánh và trở về
Gặp gỡ Thiên Chúa trong kinh nghiệm của chúng ta
Lời kêu gọi hoán cải không ngừng
------------------------------
Vào rạng sáng ngày 31-07-1556 I-nhã Loyola đã thốt ra những lời cuối cùng, “Ôi, lạy Chúa tôi”. Thật nhanh chóng, tin ngài qua đời được truyền nhanh qua các đường phố ở Rôma. Người ta đã kêu lên: “Một vị thánh đã lìa trần”.
Năm 1622, I-nhã quả thực đã được tuyên thánh. Bản tuyên bố của Đức Thánh Cha Grêgiôriô XIII đã nhắc lại tất cả những điều mà dân chúng đã biết là: “I-nhã có một trái tim đủ lớn để ôm trọn thế giới” (Mary purcell, The first Jesuit, st Ingatius of Loyola (1491 – 1556), tr. Iv). Chắc chắn thánh I-nhã đã thiết lập một dòng tu kiểu mới, các lớp, các trường đại học và các học viện phục vụ người nghèo, nhưng người ta nhớ nhất là tấm lòng quảng đại và bao dung của ngài đã ôm ấp con người đủ mọi thành phần và Thiên Chúa Đấng cư ngụ giữa họ.
Mặc dù I-nhã đã sống cách đây 500 năm, nhưng linh đạo của ngài vẫn là đá tảng đầy sứ mạnh và khôn ngoan. Linh Thao của ngài tiếp tục hướng dẫn mọi người tới sự liên kết sâu xa hơn với Đức Giê-su Ki-tô. Lịch sử đời ngài đã minh chứng một tình yêu kiên trung với Thiên Chúa và một tình yêu can trường đối với người khác. Thánh I-nhã thách đố chúng ta bước theo ngài để làm tất cả mọi sự cho vinh danh Chúa hơn.
Hạn từ cách mạng và khám phá mô tả thế giới nơi mà thánh I-nhã đã chào đời vào năm 1491. năm ngài sinh ra, vua Ferdinand V của vương quốc Castile và hoàng hậu Isabella, đã phá bỏ ách đô hộ của người Hồi Giáo ở Tây Ban Nha với chiến thắng tại Granada. Khi đánh bại các lãnh Chúa Hồi Giáo, họ đã sớm đưa ra những mệnh lệnh hà khắc đối với kẻ thua trận: người Hồi Giáo phải chọn giữa rửa tội, di tản và những hình phạt khắt khe. Chưa thỏa mãn với những biện pháp này, vua Crown đã thiết lập tòa thẩm tra giáo lý để diệt tận gốc lạc giáo trong số những người Do Thái và Hồi Giáo đã trở lại đạo và các Ki-tô hữu bị tình nghi. Tính thống nhất về tôn giáo trở thành một trắc nghiệm về lòng trung thành đối với chế độ quân chủ Tây Ban Nha và là một cách để làm cho người ta đồng lòng với chế độ này.
Sau hai mươi lăm năm thống nhất Tây Ban Nha và sự chào đời của I-nhã, một cuộc cách mạng khác đã làm chấn động Châu Âu: Đó là phong trào cải cách Tin Lành. Năm 1517, Matrin Luther đã trải ra một tấm áp phích thật lớn và đã buọc nó lên cánh cửa nhà thờ chánh tòa Wittenberg. 95 điều trên tấm áp phích đã nhóm lên những ngọn lửa cải cách mà đã cháy âm ỉ trong nhiều năm. Một người khác cùng thời với I-nhã và đã tốt nghiệp đại học Paris, Jonh Calvin đã đẩy cuộc cải cách này theo những hướng mới một cách triệt để. Và, ở Anh, vua Henry III đã đoạn tuyệt nước mình ra khỏi Giáo Hội Công Giáo Rôma.
Trong khi những cuộc cách mạng này đã phá vỡ sự hiệp nhất trong Giáo Hội và phân chia các quốc gia, thì các cường quốc Châu Au đang xác định, thăm dò và khai thác các vùng đất mới. Năm 1486 người Bồ Đào Nha đi biển vòng quanh cực nam Châu Phi, sau đó năm 1492, Christopher Columbus đặt chân đến các bờ biển của thế giới mới. Những khám phá này đã kích thích một cuộc tranh đua dữ dội giữa các quốc gia Châu Âu nhằm mở rộng phạm vi ảnh hưởng và làm lợi cho các kho bào của nước mình. Các con tàu của người Hà Lan, người Tây Ban Nha, người Bồ Đào Nha và người Anh đã đi đến các vùng biển xa xôi với hy vọng làm cho đất nước mình nổi tiếng và phồn thịnh. Đối với Giáo Hội, bất cứ vùng đất mới nào được đô hộ bởi quốc gia Công Giáo thì cũng thuộc quyền cai trị của Giáo Hội Công Giáo.
Phong trào cải cách và việc loan báo triều đại Thiên Chúa tại những vùng tân thế giới có ảnh hưởng đến I-nhã và các bạn đầu tiên trong Dòng Chúa Giê-su.
Thánh I-nhã tên thật là Inigo Lopez de Loyola. Ngài sinh ra tại lâu đài Loyola gần thị trấn nhở của xứ Azpeita nằm ở tỉnh Guipuzcoa, Tây Ban Nha, gia đình Loyola trung thành phục vụ vua Crown và được hậu đãi rộng rãi. Cha của Inigo, Beltran, chỉ huy quân đội chống lại người Hồi Giáo. Anh trai của ngài, Juan Perez, đã hy sinh trong một chiến dịch của Tây Ban Nha đánh chiếm Napoli. Anh khác là Hernando bị sát hại khi còn phục vụ cho hoàng gia ở tân thế giới.
Inigo (ngài chỉ bắt đầu xưng ngài là I-nhã khi ngài đang học ở Paris) là con út trong gia đình gồm 7 người con trai và 4 cô con gái. Dona Marina, mẹ của ngài qua đời khi ngài còn rất nhỏ. Việc chăm lo cho ngài được giao cho một bà vú nuôi Maria Gardin, bà ở mọt nông trại gần bên. Khi lên 7 tuổi Inigo trở về nhà, giờ đây dưới sự chỉ bảo của anh ngài Matrin Garcia, anh là người thừa kế tài sản của gia đình. Bợ của Matrin, Madalena de Aroaz, cô là một người sùng đạo, có văn hóa và trước đây cô đã từng là một nữ tỳ của hoàng hậu Isabella, cô trở thành người chăm sóc thay thế cho mẹ Inigo. Người ta biết đến rất ít về tuổi thơ của Inigo. Có lẽ không ai mong đợi nhiều về người con út của gia đình Beltrun Loyola này.
Dường như cha của I-nhã có ý đình muốn cho cậu sau này sẽ trở thành một linh mục. Lúc còn nhỏ, Inigo được cắt tóc, có nghĩa là: người ta cắt một mảng tóc trên chỏm đầu ngài, đây là một dấu hiệu của việc ngài được hiến dâng cho việc huấn luyện trở thành giáo sĩ. Việc dâng hiến người con út cho Giáo Hội là chuyện thông thường vào thời đó. Nhưng vào tuổi thanh niên, có một sự không tương xứng với tính cách của ngài và đời sống giáo sĩ đã chỉ là hình thức. Thực tế, Inigo để tóc dài tới vai, mặc quần áo màu sáng, đội mũ đỏ có gắn lông chim. Chỉ duy có một lần ngài nói ám chỉ tới việc ngài chịu cắt tóc, đó là trong một vụ kiện tụng chống lại ngài. Inigo tuyên bố rằng vì ngài đã chịu chức cắt tóc nên ngài chỉ chịu xét xử ở tòa án của Giáo Hội chứ không thể bị truy tố ở tòa án dân sự khắt khe hơn.
Vào đầu tuổi thiếu niên, Inigo rời gia đình và đi ngựa đến thị trấn Arevalo để phục vụ như một tập sự cho dinh quán thống đốc ngân khố hoàng gia Juan Valazquez de Cuellar, là người họ hàng và bạn của gia đình Loyola. Với công việc này, ngài chuẩn bị sự nghiệp là một cận thần và một binh sĩ.
Những lời tán tỉnh tao nhã mà I-nhã đã mơn trớn khi ở gần bên ông chủ mới đã gợi lên tất cả sự hào hoa tiềm tàng trong con tim ngài. Ngài lao vào cuộc sống của một người trẻ, một cận thần còn độc thân: ngài đánh bài, tranh cãi nhau và những cuộc chiến tay đôi. Ngài vuốt ve và đùa giỡn với những phụ nữ và trở thành một người ái một đặc biệt cô Infanta Catarina, cô êm út của hoàng đế Charlos V.
Khi hoàng hậu Isabella băng hà, Ferdinand kết hôn với một cô gái Pháp 15 tuổi, tên là Germana. Sau khi Ferdinand mất, Velazquez nhận thấy cần phải chống lại những đòi hỏi tham lam của bà hoàng trẻ góa bụa này. Kết cục bà ta đã đào thải và sỉ nhục Velazquez.
Người ta đã ruồng bỏ ông. Món nợ của ông đã chồng chất như núi, cậu con trai của ong cũng vĩnh biệt ông. Năm 1517, bị áp lực bởi nhiều nỗi bất hạnh, Velazquez đã tự kết liễu đời mình, bỏ lại Inigo đơn độc và giấc mộng của Inigo cũng tan tành.
Inigo chạy đến phía bắc, tìm mọt ông chủ mới để phục vụ. Ngài gia nhập quân đội phó vương Navara và sớm nhận thấy cần phải bảo vệ Pamplona, thủ phủ Navara với vài trăm quân lính mà phải chống cự với 12 ngàn quân Pháp đang bao vây. Inigo thuyết phục viên chỉ huy không được đầu hàng. Được động viên bởi lòng can đảm của Inigo, đội quân tiếp tục bảo vệ. Vào ngày 20-05-1517 trong suốt cuộc chiến, một viên đạn đại bát làm gãy nát chân bên phải của ngài và cũng làm cho chân bên trái bị thương nặng.
Sau khi Pamplona thất thủ, quân Pháp đã chữa trị vết thương cho ngài và ngài được đưa về nhà ở Loyola. Hành trình dài hai tuần băng qua các ngọn núi đã làm cho ngài vô cùng đau đớn. Khi Inigo về đến nhà, các bác sĩ đã phát hiện ra xương chân phải của ngài bị tổn thương rất nặng. Thậm chí nếu được chữa khỏi, nó sẽ ngắn hơn so với bình thường, và một cái xương chồi ra. Inigo yêu cầu bác sĩ mổ ra và sắp cho ngay lại. Ngài đã ở trong tình trạng nguy tử nhiều lần trong những tuần tiếp theo. Vào ngày lễ thánh Phêrô, đây là một vị thánh mà ngai có lòng sùng kính cách đặc biệt và ngài đã bắt đầu thấy đỡ dần.
Có được nhiều giờ rảnh trong khi dưỡng bệnh, Inigo xin đọc một số tiểu thuyết lãng mạn và kiếm hiệp nổi tiếng. Nhưng không tìm đâu được cuốn nào trong lâu đài, vì thế người ta đem đến cho ngài cuốn cuộc đời Đức Ki-tô và hạnh các thánh. Dần dần ngài thấy có mọt sự biến đổi bên trong. Chính vết thương bên ngoài là một cơ hội giúp chữa trị phần bên trong.
Bất cứ khi nào Inigo nghĩ về những kỳ tích vinh quang mà ngài sẽ làm như ngài là mọt người lính ngài cảm thấy hạnh phúc trong chốc lát. Khi ngài không nghĩ đến điều này nữa, thì ngài cảm thấy bị suy sụp và bất mãn. Ngược lại, khi ngài suy niệm về những kỳ tích thánh thiêng và vĩ đại của các thánh, đặc biệt là thánh Đaminh và thánh Phanxicô Assisi, ngài cảm thấy hân hoan và có thêm nghị lực. Inigo nhận ra rằng chỉ có làm theo ý Chúa mới làm ngai thấy bình an thực sự. Từ đó, lòng nhiệt huyết của ngài dành cho việc chinh chiến và chinh phục phụ nữ thì được tái định hướng cho việc phục vụ làm vinh danh Chúa hơn.
Mối quan tâm ngay lúc đó của Inigo là sám hối và thanh tẩy tội lỗi mà ngài đã gây ra trong thời trai trẻ. Điều đầu tiên là ngài quyết định đi đến một đan viện nổi tiếng nằm ở triền núi thuộc Montserat và xưng thú tất cả các tội lỗi tại đó và sau đó ăn năn sám hối. Từ Montserat, ngài sẽ hành hương đến Giêrusalem, nơi đây ngài hy vọng được ở lại và giúp đỡ những khách hành hương khác và đem những người ngoại giáo về với Đức Ki-tô.
Vào lúc Inigo 30 tuổi. Vào năm 1521. Ở Rôma, vương cung thánh đường thánh Phêrô đang được xây dựng. Đức Giáo Hoàng đã rút phép thông công đối với Matrin Luther. Jonh Calvin lúc này 11 tuổi, và Têrêsa Avila được 6 tuổi. Giáo Hội sắp bầu cử Đức Giáo Hoàng Adrian VI, là một nhà cải cách. Các quốc gia Châu Au đang ganh đua quyền lực cai trị và sự sở hữu các vùng đất mới. Trong hoàn cảnh này một người hành hương tên Inigo đang khởi hành cuộc hành trình hoán cải.
Tại Montserat, Inigo cởi bỏ những cái thuộc về con người cũ của ngài, mặc quần áo ăn xin, và xưng tội chung. ngài dành một đêm trước ngày lễ Đức Mẹ và ngày 25/03/1522 để canh thức cầu nguyện trước tượng Mẹ. Ngài cởi bỏ dao găm và kiếm tiến dâng lên Đức Bà Đen ở Montserat. sau đó ngài phó dâng chính mình hoàn toàn cho Thiên Chúa, Đấng Thống Trị duy nhất mà ngài sẽ phục vụ trong suốt cuộc đời còn lại của ngài.
Từ bỏ vũ khí và tinh thần thế gian, Inigo tiếp tục đi từ Montserat đến một ngôi làng nhỏ ở Maresa, nơi đây ngài đã trải qua nhiều tháng tại một đan viện thánh Đaminh. Ngài cầu nguyện, ăn chay, ngủ trên một phiến đá. Ngài bị chế giễu bởi những đứa trẻ đường phố, chúng cười nhạo ngài: – một kẻ ăn xin chân đất. Việc tha thiết đền bù những tội lỗi của mình đã khiến ngài làm những việc hãm mình rất khắt khe và đau đớn. Ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn, Inigo cũng thăm viếng và chăm sóc bệnh nhân tại một bệnh viện trong vùng, đặc biệt là những người mắc những căn bệnh gớm ghiếc.
Trong suốt những buổi canh thức cầu nguyện lâu giờ trong các hang động ở quanh Maresa, sức nóng ấm của bình an đã bao bọc lấy ngài sau khi ngài phó dâng mình cho Chúa ở Montserat đã bị thay thế bằng những bối rối dày vò hành hạ ngài. Khi mà những dằn vặt tội lỗi trong quá khứ bao trùm ngài, ngài hầu như rơi vào tuyệt vọng khi cho rằng Thiên Chúa có thể không tha thứ cho ngài. Ngià quá lo âu đến nỗi đã van xin Chúa “Lạy Chúa, xin chỉ cho con nơi nào con có thể tìm thấy sự giải thoát khỏi những bối rối; dù phải đi theo một con chó con, mà nó có thể giúp con, con cũng xin cam lòng”(tự thuật). Vấn đề của ngài được giải quyết chỉ khi ngài khiêm tốn vâng theo vị hướng dẫn, vị này ra lệnh cho ngài chấm dứt việc ăn chay hành hạ mình lâu ngày. Dần dần ngài chấp nhận niềm an ủi của ân sủng Chúa đi vào tâm hồn ngài.
Trong suốt thời gian ở Maresa, Thiên Chúa đã ban phúc cho ngài với những bài linh thao sâu sắc và có sức an ủi. Trong tự thuật, ngài miêu tả những thị kiến đã nâng cao nhận thức của ngài về Chúa Ba Ngôi, về việc tạo dựng và về nhân tính Chúa Ki-tô. Trên bờ sông Cardoner, ngài nhận được một sự khôn ngoan quá thâm sâu đến nỗi chính nó đã nuôi dưỡng ngài trong suốt cuộc đời còn lại. Sử dụng ngôi thứ 3 để đề cập về chính mình, ngài đã khẳng định rằng “con mắt trí hiểu của kẻ ấy bắt đầu mở ra;… đây là một sự soi sáng quá mạnh đến nỗi mọi thứ dường như mới đối với kẻ ấy (tự thuật). Cuối cùng ngài rời Maresa để hành hương đến Giêrusalem mà ngài mong muốn từ lâu. Bởi vì ngài không có tiền và tài sản gì cả, nên ngài đi xin của bố thí hay thức ăn, ngài sống phụ thuộc vào lòng quảng đại của c. và khi ngài đi, ngài tiếp tục ghi lại lộ trình nội tâm của ngài. Ngài viết về cuộc đấu tranh của ngài với bóng đêm của tội lỗi và những khao khát về quyền lực, thú vui và tài sản. Ngài viết về việc ngài biến mình cho Đức Ki-tô và quá trình tiệm tiến về chiêm niệm mầu nhiệm nhập thể, đời sống công khai, cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Ki-tô. Những kinh nghiệm suy niệm này làm nền tảng cho linh thao của ngài, chính linh thao vạch ra tiến trình cầu nguyện và suy niệm nhằm lôi kéo ai đó vào cuộc hoán cải theo Đức Ki-tô và bước vào một tình yêu hoàn bị của Thiên Chúa. Thiêng liêng là một di sản về một thiên tài Inigo thiêng liêng và sáng tạo. Cách trình bày của linh thao nói lên rằng tầm tới Đức Ki-tô đang từng bước định hình trong tâm trí Inigo.
Cần có phép của đức giáo hoàng viếng thăm Đất Thánh nên Inigo cứ từ từ đi đường vòng đến Roma nơi mà ngài sẽ nhận được sự phê chuẩn cho việc hành hương. Cuối cùng, khi xin đủ số tiền cần thiết cho chuyến hành hương, ngài lên một con tàu lớn của người Venezia mà con tàu này sẽ đi thẳng đến Giêrusalem.????
Sau chuyến hành trình gồm 6 tuần, cuối cùng Inigo đặt chân trên Đất Thánh. Bừng cháy niềm phấn khởi, ngài đã viếng thăm tất cả các nơi Thánh, nhưng chỉ sau 3 tuần, các cha trông coi Đất Thánh đã ra lệnh cho ngài phải trở về. Cah giám tỉnh lo sợ rằng như những người hành hương quá khao khát trước đây, Inigo có thể sẽ bị giết, bị bắt giam để tống tiền chuộc. Vì thế ngài đã vâng phục để trở về quê nhà Tây Ban Nha, thất vọng vì không thể ở lại và đem các linh hồn về với Chúa. Tuy nhiên ngài có một sự xác quyết trong tim mình một điều là công việc lâu dài của ngài là hoán cải những kẻ ngoại giáo đã chiếm Đất Thánh, do vậy mà ngài luôn có ý định trở lại Đất Thánh.
Trong suốt chuyến hành trình dài trở về nhà, Inigo 2 lần bị bắt, 1 lần bởi người Pháp và lần khác do người Tây Ban Nha. Cuối cùng Inigo đến Barcelona. Lúc này, ngài biết rằng nếu ngài muốn đi rao giảng Lời Chúa, ngài phải học tập thêm nữa. Trình độ học vấn của ngài chỉ như một cậu bé chưa vượt quá những kiến thức cơ bản về đọc và viết. Vì thế ngài đã học tiến Latinh. Vào năm 33 tuổi Inigo theo học cùng với các em từ 12 tuổi trở xuống. Sau 2 năm, ngài biết đủ tiếng Latinh để vào học tại một trường đại học ở Alcala, nơi đây ngài đã học triết học.
Tại Acala, Inigo sống trong một căn nhà nghèo nàn rồi sau đó chuyển vào bệnh viện ở. Ngài sống nhờ ăn xin và hướng dẫn linh thao. Nhưng đối với Inigô, cuộc sống rất khó khăn. Sau bao năm xa cách đèn sách, giờ đây việc học hành của ngài rất chậm chập. Hơn nữa do là việc đền tội thái quá trong thời gian dầu, nên sức khỏe của ngài ngày càng xuống dốc. Ngài bị sốtg và bênh đường ruột đã dằn vặt ngài cho đến khi ngài từ biệt cõi đời. Có lẽ đối với ngài, đau đớn nhất là các cuộc điều tra của Giáo Hội vào nhiều thời điểm khác nhau về tính chính thống của giáo lý mà ngài tự do rao giảng. Có lần, giáo quyền địa phương đã bắt giam ngài suốt 42 ngày. Họ cấm ngài giảng dạy giáo lý cho đến khi nào ngài học xong.’
Tin chắc Thiên Chúa kêu gọi ngài loan báo tinh Mừng, nên Inigo về một số bận theo ngài đi Salamanca, vì các ngài cho rằng chắc ó lẽ ở đây người ta dễ tiếp nhận các ngài hơn. 12 ngày sau khi đặt chân đến Salamanca, Inigo lại bị bỏ tù, lần này do các tu sĩ Đa-minh nghi ngờ ngài lạc giáo. Cho dù họ không kết án được ngài về tội gì, nhưng ngài vẫn bị cấm giảng đạo tự do.
Ngài nhận thấy rằng cần phải hoàn tất việc học hành và cần một khởi đầu mới, vì vậy đầu năm 1528 Inigô lên đường đi Pari.
Inigo bắt đầu học triết học tại đại học Montaigu, nhưng chẳng bao lâu sau ngài không có đủ tiền học theo lời khuyên của một người bạn, ngài thực hiện chuyến hành khất đầu tiên trong ba chuyến đến Flander. Những chuyến hành khất này giúp ngài có đủ khoản tiền trang trải cho việc học hành ở Pari và không còn phải băn khoan lo lắng nữa. Vào năm 1535, Inigo đã hoàn tất chương trình triết học và thần học, ngài nhận bằng cử nhân và được gọi là thầy Magister.
Trong thời gian học tập, I-nhã vân tiếp tục hướng dẫn linh thao. Cuón hút theo đặc sủng của I-nhã, các sinh viên cùng thời với ngài cảm thấy được thúc đẩy làm linh thao và chấp nhận những lý tưởng mang lại hứng khởi cho I-nhã. Trong số những bạn trẻ đầu tiên chấp nhận thách đố I-nhã nêu ra, có Phêrô Fabre và Fansicô Xaviê. Trôi dòng thời gian, ngày càng có nhiều người gia nhập với I-nhã và tình bạn lớn lên liên kết họ với Đức Giê-su.
Khao khát dấn thân cụ thể, ngày 15-8-1534, I-nhã và 6 người bạn đã khấn khiết tịnh, nghèo khó và hứa hành hương Giêrusalem. Cả nhóm quyết tâm nếu không thể thi hành sứ vụ ở Giêrusalem, nhóm sẽ dâng mình vâng phục Đức Thánh Cha, nhóm tin ràng Đức Thánh Cha biết nơi nào cần nhất để nhóm có thể đến phục vụ nhằm vinh danh Chúa hơn.
Vào thời điểm này, sức khoẻ không cho phép I-nhã, các bác sĩ và các bạn thúc ngài trở về Tây Ban Nha để chữa bệnh. Trong khi đó, các bạn đã học xong thần học và vào năm 1537 các bạn quy tụ ở Venecia để xuống tàu hành hương Đất Thánh. I-nhã đặt Phêrô Fabre làm trưởng anh em, còn ngài suôi về hướng nam quê hương ngài. Về đến nhà, sức khỏe ngài khá hơn, ngài tiếp tục giảng đạo, dạy giáo lý và giúp linh thao.
Vào cuối năm 1535, I-nhã từ Tây Ban Nha đi Venezia. Ngài cố gắng nghiên cứu sâu thần học, hướng dẫn linh thao và đợi chờ các bạn từ Pari tới. Tháng 1-1537, chín người bạn đã đén. Trong khiết tịnh chờ đợi những thay đổi chính trị cho phép họ đi Giêrusalem, các bạn đi giúp đỡ những người nghèo khổ, chăm sóc các bệnh nhân, và rao giảng lời Chúa. Ngày 24-6-1537, I-nhã thụ phong linh mục, nhưng ngài lại hoãn dâng lễ mở tay, hy vọng dâng thánh lễ đầu tiên tại Đất Thánh.
Do chiến tranh giữa Venezia và Thổ Nhĩ Kỳ, nên học không thể đi viếng Đất Thánh. Nhóm bạn bắt đầu xác định căn tính của mình là đoàn Giê-su. Suốt lộ trình đi Rôma, tiếc rằng ngài không thể thực hiện đoan nguyện trở lại Giêrusalem, nên I-nhã đã bộc lộ tâm tư và linh hồn mình cho Thiên Chúa. Ngài đã nghe thấy Thiên Chúa nói với ngài: “Ta sẽ phù giúp chúng con ở Rôma”. Với bảo đảm này, I-nhã và các bạn xác tin lao mình về phía trước.
Khi I-nhã và các bạn sống ở Roma, Đức Thánh Cha Phaolô III đã thúc các bạn thi hành sứ vụ tại thành phố này. Nhóm bạn tiếp tục hướng dẫn linh thao. Họ dạy giáo lý và làm việc giữa những người nghèo trong thành phố Rôma. Trong suốt mùa đông giá rét năm 1538- 1539, nạn đói hoành hành thành phố. Rất nhiều người chết đói, chết cóng trên khắp cá đường phố. Nhốm bạn dã phải cung cấp nơi ăn chốn ở cho những người thiếu thốn bần cùng và tân tụy hy sinh thời gian giúp đỡ người đau yếu và kẻ liệt. Mùa đông đó, nhóm bạn đã cứu trợ được tất cả trên 3000 dân. Ngay sau đó, I-nhã đã nhận ra Thiên Chúa muốn ngài phục vụ tại Rôma. Cho dù có phải đối mặt với nhiều đau khổ, nhưng I-nhã đa quyết định dâng thánh lễ mở tay vào lễ giáng sinh tại nhà thờ Đức Bà Cả.
Vào mùa xuân năm sau, nhóm bạn bắt đầu cân nhắc kỹ lưỡng về tương lai của mình. Họ có nên liên kết lại với nhau chăng? Đoàn có nên trở thành một dòng tu không? Sự vụ và tổ chức của đoàn là gì? Nhóm đã thảo luận và thấy rằng rõ ràng chính Thiên Chúa đã kêu gọi họ, rồi phần nữa là do hoa trái phục vụ hiển nhiên từ trước tới nay. Ngày 15-4-1539, nhóm đồng tầm nhất trí quyết định tiếp tục liên kết, tổ chức sống chung với nhau, và khấn vâng phục một người giữ vài trò dẫn dắt đoàn. Lập tức Đức Giáo Hoàng Phaolô III phê chuẩn miệng thành lập dòng tu mới, đó là Dòng Chúa Giê-su. Năm 1540, Giáo Hội chính thức chuẩn nhận Dòng. Cho dù I-nhã kịch liệt phản đối, các bạn vẫn bầu ngài làm tổng quản đầu tiên của Dòng Chúa đến trọn đời ngài.
Từ văn phong làm việc nhỏ bé của mình tại nhà thờ Đức Mẹ trên đường, I-nhã đã điều hành các hoạt động phát triển Dòng. Đáp lại lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, I-nhã đã sai các Giê-su hữu – trong số các Giê-su hữu, người nổi tiếng nhất là Fansicô Xaviê- đi đến ấn độ và Viễn Đông. Ngài sai họ đi khắp vùng Châu Au, tập trung chủ yếu vòa việc cải tổ và canh tân Giáo Hội. Diego Lainez giảng đạo và dạy giáo lý ở Italia và ngài đã đại diện Dòng một cách xuất sắc tại Công Đồng Trentô. Phêrô Fabre loan báo Tin Mừng trong các cuộc hành trình từ Bồ Đào Nha đến Đức. Fansicô Borja làm việc vì Đức Ki-tô tại Tây Ban Nha. Đặc sủng và sức mạn của I-nhã đã lan tỏa khắp nơi trên thế giới và được xem như “ngọn lửa ném vào mặt đất” (Lc 12, 49)
Đi đến bất cứ nơi nào Giê-su hữu đều mở các trường học. Nhằm đáp ứng nhu cầu thời đại, việc giáo dục trở nên hoạt động tông đồ ưu tiên hàng đầu. Từ khắp các xứ đạo, các Giê-su hữu truyền giáo đã mang đến cho người giáo dân có đười gia đình ngườI được canh tân bên trong của đức tin ngang qua linh thao. Đồng thời, Giê-su hữu tiếp tục chăm sóc các bệnh nhân, nuôi sống người nghèo, và thăm viếng các tù nhân. I-nhã và các bạn đã chấp nhận thái độ ứng trực, vì vậy trong mọi sự ưu tiên hàng đầu phải là vinh danh Chúa hơn.
Trong khi các bạn đang phục vụ khắp nơi trên thế giới, I-nhã làm việc tại Rôma. Ngài dành nhiều thời gian cho các anh em trong Dòng nhằm khuyến khích và hướng dẫn họ. Ngoài những trách nhiệm tổng quản Dòng Chúa Giê-su đè nặng trên vai ngài, I-nhã còn hướng dẫn mọi người qua linh tao, giảng giải, dạy giáo lý, và ngài còn xây nhà giúp các cô gái mại dâm Rôma hoàn lương. Ngài còn thành lập những trại trẻ mồ côi và dựng nhà cho những cô gái bị bóc lột có nguy có bị lợi dụng.
I-nhã còn thực hiện nhiệm vụ cao cả khác, đó là ngài viết, sửa đổi và chắt lọc hình thành Hiến Chương cho Dòng. Trong thánh lễ hằng ngày, ngài dâng lên Thiên Chúa một điểm hiến chương đặc biết mà ngài quan tâm. Rồi ngài suy niệm về điểm đó. Hiến chương phát biếu rõ ràng luật yêu thương, luật này là sức mạnh và là tinh thần của linh thao. Khi soạn xong, hhiếnchương đã cụ thể hóa khuân mẫu sống hình thánh nên một con đường đưa tới Thiên Chúa.
Suốt những năm tháng cuối đời ngài, I-nhã đã bị bệnh gan hành hạ. Cuối cùng, vào sáng ngày 30-07-1556, I-nhã đã yêu cầu thư ký gửi thư xin phép lành tòa thánh cho kẻ đang hấp hối. Đúng nửa đêm hôm đó, vị tu huynh kế phòng ngài đã đã nghe thấy I-nhã cầu nguyện: “ôi Chúa của con!”. Vào tảng sáng hôm sau, I-nhã an bình phó dâng đời mình lên Chúa.
Chính thời điểm ngài trở về với Chúa, có khoảng xấp xỉ 1000 Giê-su hữu đang thi hành sứ mạng của I-nhã. Họ dạy học trong 46 trường đại học ở Châu Au và phục vụ tại 110 cơ sở của dòng trên toàn thế giới.
Gia sản linh đạo của thánh I-nhã lan rộng qua đời sống của các bạn trong dòng Chúa Giê-su. Tuy nhiên, ngài đã để lại bốn tài liệu quan trong, hơn 7000 lá thư đã diễn tả và làm nổi bật chân tính linh đạo của ngài. Cho đến cuối đời, ngài mới kể câu chuyện cuộc đời ngài từ cuộc hoán cải cho đến năm 1538. Cuốn nhạt ký thiêng liêng chỉ tiết lộ một phần nhỏ về hành trình nội tâm của ngài. Cuốn linh thao và hiến chương ngài trình bày những chỉ dẫn có hệ thống nhằm giúp đời sống thiêng liêng. Từ những tài liệu này, những luồng chính yếu về linh đạo của thánh I-nhã có thể được phác họa.
Một niềm tin vững chắc mà I-nhã đã giữ chặt như bám chắc vào tảng đá trong cơn bão táp cho thấy chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong kinh nghiệm của chúng ta. Thiên Chúa trực tiếp đến với những người nam, nữ và họ sẽ nhận ra Thiên Chúa hiện hữu nếu họ biết mở tâm trí mình ra. Mục đích của linh thao là giúp mọi người có kinh nghiệm trực tiếp gặp gỡ Thiên Chúa đầy quyền năng. Khi họ gặp Thiên Chúa, họ sẽ được biến đổi luôn mãi. Cuọc gặp gỡ này giúp cho con người được tự do yêu thương hết mình.
Đối với I-nhã, sống là quảng đại và nhiệt tâm đón nhận ý Chúa vì vậy phục vụ và làm dinh danh Chúa trở thành động lực thúc bách đời ngài.
Thánh I-nhã không ngừng khao khát Thiên Chúa. Ngài đã cảm nếm sự khát khô và trống rỗng mà không một sức mạnh hay sự chiếm hữu nào có thể làm thỏa lòng ngài. Ngài khát mong một tình yêu hoàn bị xuất phát từ cội nguồn của mọi tình yêu. Khi I-nhã cảm thấy tình yêu chiếm đoạt ngài, ngài nỗ lực hết mình để đạt mục đích duy nhất đó là cho vinh danh Chúa hơn.
Linh thao thúc giục các thao viên lắng nghe Chúa Thánh Thần nhằm khám phá ra ý Chúa và điều làm vinh danh Chúa hơn. Thông qua quá trình hoán cải đời mình theo Đức Ki-tô, I-nhã đã học được phương pháp nhận định mà vẫn còn áp dụng cho thời nay như đã được dùng cách đây 500 năm.
Linh đạo thánh I-nhã không yêu cầu xa lánh thế gian. Đúng hơn, I-nhã đã mang lời Chúa vào học đường, bênh viện, trại trẻ mồ côi,, và các văn phòng giới chức. Bất cứ nơi đâu có con người đau khổ, thì trái tim và đôi bàn tay I-nhã lại hòa điệu theo lòng xót thương của Đức Ki-tô. Không có hy sinh nào qua lớn, chẳng khổ đau nào qua sâu xa, và đâu có nghèo khổ nào quá đau đớn cả miễn là tình yêu Đức Ki-tô đã trở nên trung gian hòa giải.
Trong khi đáp lại lời kêu gọi phục vụ những người cần giúp đỡ, I-nhã đã tìm cách trợ giúp việc canh tân Giáo Hội. Ngài giảng đạo, dạy giáo lý, hướng dẫn linh thao, ước mong kêu gọi toàn thể Giáo Hội thông qua các vị lãnh đạo Giáo Hội tái hiến dâng cho triều đại Thiên Chúa.
I-nhã đã soạn thảo linh thao và xét mình hằng gày để giúp mọi người đáp lại lời kêu gọi hoán cải theo Đức Ki-tô.
Linh thao hướng dẫn thao viên trong tiến trình kéo dài một tháng, khởi đầu bằng cuộc đối đầu với tội lỗi của thao viên, tiếp theo là việc chiêm ngăn Chúa giáng Sinh. Cuôc đời công khai, cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giê-su, và kết thúc bằng một số bài suy niệm về tình yêu cá vị và vô điều kiện mà Thiên Chúa danh cho mỗi người. Trong suốt thời gian làm linh thao, ngoài các chủ dề khác nhau, các thao viên còn được hướng dẫn về ba bậc sống khiêm nhường, các phương pháp cầu nguyện và cung cách nhận định ý Chúa. Linh thao chính nó là lúc đẩy sức mạnh để trở về với Chúa, và những phương pháp cầu nguyện cũng như nhận định là những khí cụ giúp cho hành trình không ngừng tiến về với Chúa.
Đối với thánh I-nhã, Giáo Hội diễn tả khía cạnh thể lý của tình yêu Thiên Chúa dành cho dân ngài. Giáo Hội là con đường dẫn đế Thiên Chúa và là biểu tượng tình yêu huyền nhiệm của Thiên Chúa cho con người.
Khát vọng phục vụ các linh hồn Ki-tô hữu thúc đẩy I-nhã hiến dâng thân mình cho Giáo Hội. Mặc dù I-nhã thấy quá nhiều vấn đề nhân loịa đang đe dọa Giáo Hội thời ngài, nhưng lòng trung thành I-nhã không hề nao núng. Cho dù có lầm lạc nhất thời, nhưng Giáo Hội vẫn là sứ giả của lời Chúa, người phục vụ dân Chúa, cộng đoàn những người tin Chúa, và là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa.
Linh đạo thánh I-nhã mời gọi mọi người cầu nguyện hằng ngày. Trong nhật ký, thánh I-nhã mô tả một vài phương pháp cầu nguyện cá nhân và ngài khuyến khích mọi người làm thăng tiến kiểu cầu nguyện này sao cho phù hợp nhất đối với con người thật của họ là ai và họ đang ở chặng đường nào của đời sống thiêng liêng. Bằng sự nhạy cảm của mình, I-nhã nhận ra rằng mỗi cá nhân đều có những ân sủng khác nhau nhưng đều có sự biến đổi nội tâm duy nhất của linh hồn.
I-nhã đến với cầu nguyện không chỉ bằng trí tuệ, trí nhớ và trí hiểu, nhưng còn bằng các giác quan và bằng trí tưởng tượng năn hoạt của mình.
Ngược với một số thực hành thời ngài, I-nhã khuyến khích điều độ trong ăn chay, và đền tội. Ngài biết rằng việc giải quyết những và chạm và thách đố thông thường trong gia đình, cộng đoàn, trong sứ vụ và nơi làm việc trong tình yêu thương đòi buộc phải hy sinh và kỷ luật cho đủ hầu thách đố mọi người.
I-nhã cũng khuyên cần có quan tâm đủ đến sức khỏe thể lý. Ngài hiểu lợi ích của việc ăn uống và giải trí, ngài xác nhận rằng trí tuệ minh mẫn và thân thể cường tráng là rất cần thiết và rất hiệu quả trong sứ vụ, trong việc tìm kiếm vinh danh Chúa hơn.
Mong sao cho tình yêu, niềm hy vọng và sự hoàn thiện bùng cháy trong tâm hồn bao người hôm nay như đã bùng cháy trong tâm hồn I-nhã. Thời của I-nhã có những ác thần thời ấy, thời của chúng ta bây giờ cũng có những ác thần thời nay. Chúng có thể thực sự không khác nhau là mấy.
Con đường dẫn đến Thiên Chúa xuất hiện từ cuộc hoán cải của I-nhã vẫn có thể dẫn dắt chúng ta thoát khỏi quỉ kế thời đại chúng ta: nghiện hút, lòng tham, tâm hồn cô quạnh, thất vọng, bối rối, bạo lực và vô nghĩa. Trải qua bao thế kỷ, linh thao điều chứa đựng cái cốt lõi của linh đạo I-nhã, thì nay vẫn luôn là phương tiện đầy sức mạnh góp phần đào luyện thiêng liêng. Thánh I-nhã hẳn là người bạn đường khôn ngoan và đầy nhận định trên hành trình của chúng ta hướng tới sự bao bọc chở che của Thiên Chúa yêu thương. Trên đường lữ hành, cùng với thánh I-nhã chúng ta có thể học cách hô vang: tất cả Chúa vinh danh Chúa hơn.
Chủ đề: điểm then chốt trong hành trình thiêng liêng của chúng ta, chính là lúc chúng ta phải đi đến đối diện với sự trống rỗng trong tâm hồn mình, mà chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy.
Nhập nguyện: Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho con luôn luôn nhận thức được rằng: con là kể hư không và bất lực nếu thiếu Ngài và con hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài.
Thánh I-nhã đã tự nói về mình, lúc ông còn là chàng thanh nhiên 26 tuổi: ông là một hiệp sĩ kiêu hãnh, đầy hoài bão và cũng ham mê võ nghệ. Thư ký của ngài là Juan de Polanco cũng đã nói thêm về thời trai trẻ của I-nhã như sau: “mặc dù gắn chặt với đức tin nhưng ngài đã không sống theo niềm tin của mình và ngài cũng không xa tránh tội lỗi. Đặc biệt ngài sống vô kỷ luật qua việc chơi bài bạc, những việc liên quan đến phụ nữ và cả những trận đấu kiếm.”(Joshep de Guibetr, The Jesuits: Their Spiritual. Doctrine anh Practice p.23).
Sau đó, tại Pamplona, một viên dạn đại bác đã xé nát hai chân của ngài. trong suốt thời gian dài dưỡng thương trong đau đớn, Inigo đã trãi qua một sự biến đổi trong tâm hồn, nhận ra sự trống rỗng của đời sống quá khứ. Trong cuốn tự thuật của ngài, I-nhã đã nói:
Thiên Chúa đã giúp đỡ kẻ ấy, Ngài đã tại ra những ý tưởng khác mà chúng nảy sinh từ những điều kẻ ấy đã đọc… Trong khi đọc cuộc đời Chúa Ki-tô và hạnh các thánh, kẻ ấy dừng lại để suy nghĩ, có những lý luận trong chính kẻ ấy rằng, “Giả như tôi làm những điều mà thánh Phanxicô và thánh Đaminh đã làm thì sao? Do đó kẻ ấy suy nghĩ nhiều về những điều mà kẻ ấy thấy là tốt và luôn luôn nhắm đến những khó khăn, những khó nhọc và khi tự đề ra những việc ấy cho mình thì kẻ ấy thấy rằng những việc ấy dường như dễ thực hiện… những ý tưởng này cũng đã kéo dài trong một lúc lâu những khi những ý tưởng khác xen vào… ý tưởng trần tục… quay lại và kẻ ấy cũng đã dùng nhiều thời gian nghĩ về chúng.
Tuy nhiên có sự khác biệt này, khi kẻ ấy đang nghĩ về những điều của thế gian, kẻ ấy thấy vui thích những sau đó khi kẻ ấy mệt mỏi và không suy nghĩ nữa thì kẻ ấy cảm thấy cô quạnh và buồn chán. Những khi nghĩ đến việc đi Giêrusalem, đi chân đất và không ăn gì cả mà chỉ ăn rau cỏ và chịu đựng tất cả những khắc khổ khác như các thánh đã làm, không những kẻ ấy được an ủi khi có những ý tưởng này mà còn sau khi đã thôi không suy nghĩ nữa thì kẻ ấy vẫn cảm thấy vui thích… Một lần kia, mắt kẻ ấy phần nào được mở ra kẻ ấy bắt đầu ngạc nhiên về sự khác biệt này và bắt đầu suy nghĩ về nó, kẻ ấy nhận ra sự khác nhau giữa các thần tác động lên kẻ ấy, tác động của ma quỷ và tác động của Thiên Chúa. (Tự thuật)
Điểm dừng: hãy hỏi bản thân bạn xem đã bao giờ bạn cảm nhận về kiểu trống rỗng này và về sự buồn chán, điều mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể lấp đầy chưa?
Con người được tạo dựng để ngợi khen, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa…
Mọi loài khác trên mặt đất được tạo dựng cho chúng ta để giúp chúng ta đạt tới cùng đích mà con người được tạo dựng vì cùng đích đó.
Do đó, chúng ta phải sử dụng tạo vật theo mức độ chúng giúp đạt cứu cánh và phải dẹp bỏ chúng khi chúng làm cản trở. Vì thế chúng ta cần phải giữ mình sao cho được bình tâm trước mọi loài thọ tạo trong tất cả những gì nằm trong sự tự do của ta và không bị cấm, đến nỗi chúng ta không ước muốn sức khoẻ hơn bệnh tật, của giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết sớm và tương tự như thế đối với mọi sự khác, ước muốn và chọn lựa duy nhất của chúng ta là cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả (Linh Thao)
Suy gẫm
Kinh nghiệm của thánh I-nhã cũng giống như kinh nghiệm của nhiều người trong chúng ta, những người cần phải đối diện với sự trống rỗng trong đời sống của chúng ta. Thánh I-nhã đã tự hướng mình đến những thành công, danh tiếng và sự kính trọng. Nằm bên dưới sự thôi thúc này là một sự khao khát sâu thẳm và sự trống rỗng bên trong. Không phải việc chơi cờ bạc, tán tĩnh phụ nữ mà cũng không phải những cuộc đấu kiếm đã phủ lấp nỗi (bù đắp nỗi) sự trống rỗng trong tâm hồn ngài. những cũng không phỉa lòng mến đạo lôi cuốn. Sau cuộc hoán cải, thánh I-nhã đã ăn chay cách thái quá và đánh tội cách nghiêm khắc. Việc này chỉ làm thúc đẩy những khao khát bên trong của ngài.
Quả vậy, sự hoán cải thật sự, chỉ đến khi chúng ta quay trở về với Thiên Chúa, nhận biết rằng chỉ mình Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể lấp đầy sự trống rỗng của chúng ta và chỉ tình yêu của Thiên Chúa đã được đổ xuống cho chúng ta nhờ Đức Giê-su. Chúng ta không thể tự kiếm lấy tình yêu Thiên Chúa vì Đức Giê-su ban nó cho chúng ta cách những không và luôn mãi, nếu như chúng ta mở lòng ra đón nhận. Thánh I-nhã đã cần bước đi và tín thác vào Thiên Chúa. Chỉ Thiên Chúa, lúc đó, mới lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn thánh I-nhã.
Lấy bút hay bút chì và một vài tờ giấy để viết ra những suy nghĩ của bạn. Nếu bạn giữ cuốn nhật ký, hãy mở nó ra. Hãy thinh lặng. Ngồi xuống một cách bình tĩnh trước một tờ giấy trắng. Thở thật sâu chó tới khi bạn cảm thấy thư giãn. Nhớ lại những kinh nghiệm mà bạn đã có về sự trống rỗng, cảm nhận mạnh mẽ về một vài điều gì đó mà bạn đang thiếu thốn một cách trầm trọng trong cuộc sống của bạn, đau đớn về sự trống rỗng bên trong tâm hồn bạn. Sau đó bắt đầu diễn những kinh nghiệm về sự trống rỗng này, sự đau đớn bên trong. Hãy bày tỏ tất cả cảm xúc của bạn mà không cần phải lo lắng về trật tự hay quy tắc.
Thánh I-nhã đã cố gắng để lấp đầy sự trống rỗng bằng cách đánh bạc, tán tỉnh phụ nữ và đấu kiếm. Tất cả chúng ta có những cách riêng trong việc khỏa lấp sự trống rỗng mà chúng ta cảm thấy. Vái người khỏa lấp sự trống rỗng bằng cách ăn thật nhiều, một số khác lại trở thành con nghiện của các vở kịch lâu giờ. Đam mê công việc cũng là một cách cám dỗ để ngăn chặn chúng ta khỏi những khao khát sâu xa bên trong về Thiên Chúa. Bạn hãy liệt kê những cách thức che dấu sự trống rỗng tâm hồn bạn, sự trống rỗng mà chỉ Thiên Chúa mới có thể khỏa lấp.
Hãy đụng chạm tới những khao khát bên trong của bạn và hãy ao ước sự sung mãn của Thiên Chúa bằng cách áp dụng bài suy niệm này. Chuẩn bị: tắt đèn phòng; để chỉ còn lại ánh sáng của cây nến thôi
Ngồi xuống một cách thư giãn… nhắm mắt lại… tiếp tục, hãy loại bỏ những căng thẳng… bắt đầu từ đôi chân… bạn cảm thấy căng thẳng biến mất… Tiếp tục với những căng thẳng khác, rồi lại thư giãn ở từng phần trên cơ thể bạn… Đồng thời, hãy thở chầm chậm và sâu… Tập trung vào hơi thở của bạn trong một lúc.
Hãy tưởng tượng những ao ước sâu xa nhất trong bạn là sự đau đớn bên trong, hướng đến sự hoàn hảo và sung mãn mà vì khao khát đó hình thành nên bạn và đang ngồi trước bạn…. Rồi hãy hỏi điều khao khát của bạn xem nó ao ước điều gì… Hãy lắng nghe khao khát đó và diễn tả khát vọng sâu xa… những nơi trống vắng… sau mê hướng đến sự sung mã.
Bây giờ, mở mắt ra với ánh sáng của ngọn nến… cách nhẹ nhàng hãy cầu nguyện một chữ, một câu để diễn tả điều mà bạn khao khát. Ví dụ “đến”, “ánh sáng”, “Giê-su” hay “từ vực thẳm con kêu lên Ngài”. Hãy nhắc lại lời nguyện như một lời than thở và như một lời cầu xin ánh lửa của Thiên Chúa tràn ngập bạn.
Trong sự thinh lặng của tâm hồn, bạn hãy tuyên bố về sự lệ thuộc của bạn vào Thiên Chúa. Hãy làm một cử chỉ diễn tả niềm tín thác của bạn vào Thiên Chúa.
15 Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm.16 Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt.17 Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.18 Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không.19 Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.20 Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.
21 Bởi đó tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay.22 Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa;23 nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
24 Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?25 Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! (Rm 7,15-24)
Kết nguyện: Lạy Chúa xin cứu con! Và con không tìm ra phương thuốc chữa trị nào có giữa các tạo vật, nhưng nếu như con nghĩ con có thể tìm được thuốc chữa, thì không một cực nhọc nào quá lớn lao đối với con. Xin chỉ cho con, ôi lạy Chúa, ở đâu con có thể tìm được phương thuốc chữa; dù con có phải đi theo sau một con chó con mà nó giúp được con thì con cũng sẽ đi (Tự thuật)
Chủ Đề: có lần, thánh I-nhã biết rằng cuộc sống viên mãn chỉ có được khi có tương quan với Thiên Chúa, ngài tin rằng Thiên Chúa hướng dẫn ngài từng bước “như một thầy giáo đối xử với mọt học trò” (Tự thuật)
Nhập nguyện: Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng soi dẫn, con tín thác nơi Ngài.
Khi bình phục các vết thương ở Pamplona và trải qua cuộc hoán cải, ngài hứa sẽ hành hương Giêrusalem. Đúng như ngài nói, khi đôi chân của ngài được bình phục hoàn toàn, ngài đã khởi sự hành trình dài. Để từ bỏ con đường cũ, I-nhã mang lấy thân phận của một kẻ ăn xin, hoàn toàn tin rằng Thiên Chúa sẽ lo liệu đến những nhu cầu của mình. sau một hành trình dài và nguy hiểm, ngài đã đến Roma.
Có nhiều người đến nói chuyện với kẻ ấy, đều biết rằng kẻ ấy không mang tiền để đi Giêrusalem, đã khuyên kẻ ấy đừng đi, họ đưa ra nhiều lý do tại sao không thể đi được nếu không có tiền. Nhưng kẻ ấy đảm bảo chắc chắn trong lòng rằng (không nghi ngờ) kẻ ấy sẽ tìm cách đi Giêrusalem. Sau khi nhận phép lành của Đức Thánh Cha Andriano VI, khoảng 8 hoặc 9 ngày sau lễ Phục Sinh, kẻ ấy lên đường đi Venezia. Kẻ ấy có 6 hoặc 7 đồng ducats mà họ đã cho kẻ ấy đi từ Venezia đến Giêrusalem; kẻ ấy đã nhận chúng, để tránh đi những sợ hãi đã gợi lên là kẻ ấy sẽ không thể đi bằng cách nào khác. nhưng 2 ngày sau khi rời khỏi Roma, kẻ ấy nhận ra nơi kẻ ấy là sự thiếu lòng tin, và việc kẻ ấy nhận những đồn ducats đã làm cho kẻ ấy bối rối, vì thế kẻ ấy quyết định tốt hơn nên bỏ đi những đồng đó. Cuối cùng, kẻ ấy quyết định cho một cách thoải mái những ai mà kể ấy gặp, thường là người nghèo. Kẻ ấy làm như vậy, và khi đến Venezia, kẻ ấy chỉ còn vài đồng quatrini cần cho đêm hôm đó. (Tự Thuật)
Thánh I-nhã xác tín mạnh mẽ trong lòng rằng “Thiên Chúa sẽ lo liệu cho mình có phương tiện để đi đến Giêrusalem; điều này làm cho kẻ ấy mạnh mẽ vì thế không lý luận nào, không sợ hãi nào làm cho kẻ ấy nghi ngờ” (Tự Thuật 42). Và quả thật, người ta quan tâm đến kẻ hành hương thiếu thốn này và đã lo liệu cho ngài đi đến Thành Thánh.
Điểm dừng: hãy suy nghĩ câu hỏi này: tôi tín thác như thế nào vào sự quan tâm yêu thương của Thiên Chúa dành cho tôi?
Trong một lá thư gởi cho người bạn là Isabel Roser, thánh I-nhã khuyên bà ta nên phó thác vào Chúa, cho dù có đau khổ nhưng Thiên Chúa vẫn dạy dỗ và hướng dẫn chúng ta.
Trong lá thư thứ 2 bà kể cho tôi về cơn đau dai dẳng mà bà đã trải qua và về những cơn đau dạ dày dữ dội nữa. Quả thực tôi không thể không cảm thông sâu sắc với bà trong những đau khổ của bà, bởi vì tôi cầu mong cho bà được hạnh phúc và thịnh vượng, miễn là điều này giúp bà làm vinh danh Chúa là Chúa chúng ta. Tuy nhiên, khi chúng ta suy gẫm, chúng ta thấy rằng những yếu đuối và những thiếu thốn đời này thường do bàn tay Chúa lo liệu để giúp chúng ta nhận biết con người mình tốt hơn và loại bỏ đi chính cái tôi yêu mến các thụ tạo. Hơn nữa, chúng giúp chúng ta tập trung suy nghĩ về sự ngắn ngủi của cuộc đời này, để chuẩn bị cho sự sống khác không bao giờ tàn lụi. Khi tôi nghĩ rằng trong những đau khổ này, Thiên Chúa đến viếng thăm những ai Ngài yêu thương, thì tôi không cảm thấy buồn và đau đớn, vì qua một căn bệnh, tôi nhận thấy rằng người tôi tớ của Thiên Chúa trở nên cái gì đó của người thầy thuốc để hướng dẫn và sắp xếp cuộc đời mình nhằm tôn vinh và phục vụ Thiên Chúa.”
Suy gẫm
Cho đến thời điểm ngài bị giam hãm, I-nhã đã hoàn toàn cậy dựa vào chính mình. Khi ngài đọc và suy niệm về cuộc đời Đức Ki-tô, niềm tin của ngài trở nên vững mạnh. Ngài bắt đầu thấy rằng chân lý ở trong Đức Giê-su, và ngài nhận ra sự thật đó giải thoát ngài (Ga 8, 32). Ngài đi vào một mối tương quan cá vị với Thiên Chúa. Tâm hồn ngài tràn đầy niềm hy vọng.
I-nhã dần dần nhận ra rằng Thiên Chúa đã và đang hướng dẫn ngài, và rằng “Thiên Chúa đối xử với ngài … như thầy giáo đối xử với một học trò”. I-nhã đã học tốt bài học đầu tiên này. Ngài đã học tín thác vào một Thiên Chúa hoàn toàn đáng tin cậy và đón nhận sự hiện diện và hướng dẫn của Thiên Chúa trong cuộc sống của ngài.
Hãy đọc lại và suy niệm phần “trích lời thánh I-nhã”. Dành thời gian để lắng nghe thánh I-nhã nói những lời này với bạn. Khi bạn đi qua một đoạn mà bạn được soi sáng một cách đặc biệt, hãy tâm sự về đoạn này với thánh I-nhã. Hãy hỏi ngài và tự hỏi bạn, đoạn đó có ý nghĩa gì? Khi bạn đã kết thúc cuộc đối thoại, hãy viết ra một vài suy nghĩ của bạn.
Đoạn trích Kinh Thánh cựu ước:
4 Người là Núi Đá: sự nghiệp Người hoàn hảo,
vì mọi đường lối Người đều thẳng ngay.
Chúa tín thành, không mảy may gian dối,
Người quả là chính trực công minh.
5 Những đứa con mà Chúa đã sinh ra không tì ố
lại lỗi đạo với Người, ôi nòi giống lưu manh tà vạy!
6 Hỡi dân tộc ngu si khờ dại,
ngươi đáp đền ơn ĐỨC CHÚA vậy sao?
Há chính Người chẳng phải cha ngươi,
Đấng dựng nên ngươi, Đấng tạo thành, củng cố?
7 Hãy nhớ lại những ngày xưa tháng cũ,
và ngẫm xem từng thế hệ qua rồi.
Cứ hỏi cha ngươi là người sẽ dạy,
thỉnh bậc lão thành, họ sẽ nói cho nghe.
Hãy ngẫm xem câu chuyện đời bạn và lòng thành tín của Thiên Chúa.
Ngồi yên lặng. Hít thở sâu. Trấn tĩnh tâm hồn. Hãy liệt kê ít nhất 7 biến cố chính yếu định hình đời sống bạn. Cứ mỗi biến cố hãy viết ra những suy tư của bạn vì biến cố đó là phương tiện hình thành niềm tin và sự phó thác của bạn vào Thiên Chúa như thế nào?
Sau đó viết ra những phản ứng của bạn theo những câu hỏi này: sự can thiệp của Thiên Chúa lộ rõ trong mỗi biến cố như thế nào? Trong mỗi biến cố, điều tốt, sự khôn ngoan và sự trưởng thành đến như thế nào?
Hãy trao đổi với Thiên Chúa hằng hữu kế hoạch Thiên Chúa mặc khải cho bạn đang dần dần hé mở như thế nào trong toàn bộ phạm vi đời sống của bạn. Bạn đã hy vọng hơn như thế nào? Bạn cản thấy Thiên Chúa đang bảo vệ, nâng đỡ và hướng dẫn bạn ra sao?
Trong thiêng liêng, thánh I-nhã khuyên những thao viên tâm sự với Chúa Giê-su “ một cách chính xác như một người bạn nói với bạn mình hay như một người đầy tớ nói với chủ mình, khi xin một ơn, khi thú một lỗi, khi tỏ bày việc của mình và xin chỉ bảo” (Lt 54 ). Bây giờ Chúa Giê-su đang ở với bạn. Hãy thưa với Chúa Giê-su về những khoảnh khắc trong cuộc đời bạn, bạn cần phó thác hơn, và về những cách thức bạn chối từ sự phó thác nơi Ngài.
Suy nghĩ câu chuyện về sự phó thác của thánh I-nhã mà Thiên Chúa ban cho ngài trên hành trình lên Giêrusalem. Bạn đã đóng góp cho hạnh phúc của những anh chị em nghèo khổ chưa, để tin rằng Thiên Chúa sẽ nâng đỡ bạn? Có bao giờ bạn miễn cưỡng chia sẻ những ân huệ mà Thiên Chúa đã quảng đại ban cho bạn chưa? Bạn đã thực hiện những bước cụ thể nào để biểu lộc sự phó thác của bạn vào tình yêu trung thành của Thiên Chúa dành cho bạn và để quan tâm đến người khác?
4Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. 5Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô, 6 để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu.7 Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người.8 Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. 9Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. 10Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đấtdưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô.
Kết nguyện: Lạy Thiên Chúa tình yêu, xin củng cố trong con niềm tin và sự phó thác vào Ngài. Như thánh I-nhã, xin cho con khám phá ra Ngài đã hiện diện và hướng dẫn con như thế nào trong mọi hoàn cảnh và mọi biến cố của đời sống con. Xin cho con dần nhận ra cách Chúa nói với con trong cuộc sống. Hãy mở lòng con để con biết lắng nghe và nghe lời yêu thương của ngài tràn ngập lòng con niềm hy vọng.
Chủ đề: trung tâm của đời sống dâng hiến là tình yêu và đó là quà tặng trọn vẹn của mình nối kết mình một cách bền vững với người mình yêu. Thánh I-nhã đã được ban tặng tất cả và hoàn toàn đồng nhất với Đức Ki-tô.
Tiền nguyện: Lạy Chúa là Đấng rất từ bi nhân hậu, xin ban cho con ân sủng Chúa để con có thể thay đổi ý muốn và cuộc sống của con theo sự quan phòng của Ngài.
Vào đầu thế kỷ XVI, một làn sóng về chủ nghĩa lãng mạn và tinh thần hiệp sĩ đã bao trùm khắp Tây Ban Nha. Khi đó thánh I-nhã là một chàng trai trẻ rất nhạy cảm. Sự tăng vọt của nhiều cuốn truyện phiêu lưu và nhiều nhạc phẩm đã thống trị trí tưởng tượng của người dân Tây Ban Nha. Một trong những cuốn nổi tiếng là cuốn “Amadis de Gaula”. Cuốn tiểu thuyết này và hệ quả của nó đã lôi cuốn chủ nghĩa lý tưởng của tuổi trẻ.
Nó đã trở thành một phím đàn của một mưu đồ chính trị đã được hoàn tất. Mã hóa vinh dự đã ảnh hưởng nhiều thế hệ,…cuốn tiểu thuyết đó còn tồn tại mãi suốt thế kỷ XVI nói về cung cách hành xử lịch sự, lời lẽ dùng trong cuộc nói chuyện lịch sự, nguồn tài liệu nhận thức về xưng hô theo đúng cung cách lịch sự. (Jame Brodick Saint Ignatius Loyola: The pilgrim year 1491- 1538. P.40).
Thánh I-nhã đã đọc những cuốn sách này một cách thèm khát, những hình ảnh hào hiệp và mạo hiểm của Amadis và con trai của ông là Esplandian đã ngập tràn trong tâm trí thánh I-nhã. Nơi Amadis thánh I-nhã thấy được kiểu mẫu hoàn hảo, một tấm gương, một kiểu mẫu của những đầy tớ trung thành và của những người không ngừng say mê, sự che chở và nâng đỡ người yếu đuối và nghèo khổ, luôn bảo vệ cho những giá trị đạo đức và công bằng. (Brodick, Saint Ignatius, P.40)
Khi thời điểm đã đến với thánh I-nhã để biến đổi cuộc đời hoàn toàn cho Thiên Chúa ngài đã thi đua nói với Esplandian, người đã làm cuộc canh thức võ trang trước tượng đức mẹ ban ơn trước khi được tấn phong hiệp sĩ. Thánh I-nhã đã mô tả giây phút dâng hiến của chính mình ngài.
Kẻ ấy đi tiếp đến Monserat, luôn luôn nghĩ về những kỳ tích mà ngài sẽ làm vì yêu mến Thiên Chúa. Vì tâm trí đầy những ý tưởng từ Amadis de Gaula và những cuốn sách như thế, một vài điều tương tự với những ý tưởng kia đến trong tâm trí ngài nên kẻ ấy quyết định canh thức võ trang trọn một đêm không ngồi hay đi ngủ nhưng khi thì đứng khi thì quì trước bàn thờ Đức Mẹ ở Mónserat nơi mà kẻ ấy đã quyết tâm cỏi bỏ trang phục của ngài để mặc lấy áo giáp của Đức Ki-tô… Sau khi đến Mónserat kẻ ấy đã cầu nguyện và chuẩn bị gặp một linh mục giải tội… Kẻ ấy cũng thu xếp với cha giải tội để nhận con la và treo kiếm và dao găm trên bàn thờ Đức Mẹ ở trong nhà thờ…. Đêm trước ngày lễ Đức Mẹ vào tháng 3 năm 1522, vào lúc đêm xuống kẻ ấy ra đi hết sức kín đáo, đến với một người nghèo kẻ ấy cởi bỏ trang phục của mình cho người ấy và mặc chiếc áo mình hằng mong ước. Kẻ ấy đến quỳ trước bàn thờ Đức Mẹ, tay cầm gậy ở đó suốt đêm khi quỳ lúc đứng. (Olin and O’Callaghan, Autobiography PP.31- 32)
Thánh I-nhã là vị thánh duy nhất được biết đến là ngài đã dâng hiến hoàn toàn đời mình cho Thiên Chúa vào một đêm canh thức võ trang ý tưởng đến với ngài từ lãng mạn thuở xưa, nhưng chính nó đã vượt qua mọi nghi lễ và là một việc làm của tình yêu siêu nhiên được linh hứng bởi trời. (Brodick, Saint Ignatius Loyola P.86)
Điểm dừng: Hãy suy gẫm theo câu hỏi này: tôi đã dâng hiến đời minh cho Thiên Chúa chưa ?
Để chúng ta kết hiệp với Thiên Chúa, Chúa chúng ta và để bày tỏ lòng quản đại của ta với ngài chính là để dâng hiến hoàn toàn và bền bỉ chính con người của ta để phục vụ Ngài…. Một người càn kết hiệp với Thiên Chúa, Chúa chúng ta và càng quảng đại hơn với Thiên Chúa chí tôn thì anh ta càng nhận ra Thiên Chúa quảng đại hơn với chính anh ta và càng ước muốn đón nhận những ân sủng và những món quà thiêng liêng lớn hơn mỗi ngày. (George E. Ganss, trán The Constutions of The Society of Jesus, P.163)
Suy Gẫm
Sau đêm ở Monserrat, thánh I-nhã đã hiến dâng mình hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Thiên Chúa là trung tâm và chiếm trọn những suy nghĩ của thánh I-nhã và là đối tượng của tình yêu đặc biệt của ngài và người yêu, và ngài muốn làm mọi việc bé nhỏ trong đời sống hằng ngày. Ngài muốn được kết hiệp một cách bền chặt với Thiên Chúa như là khí cụ để dẫn đưa tha nhân trở về với Chúa và bằng cung cách hành xử của mình và ngài cũng quan tâm người khác ngoài Thiên Chúa – Thiên Chúa và tất cả mọi người như Đức Ki-tô đã đổ máu mình ra vì nhân loại (Ganss, Consturion, P.15)
Về đời sống dâng hiến chúng ta nên bắt chước thánh I-nhã đừng thử thách Thiên Chúa thì chúng ta nhận ra được rằng Thiên Chúa hướng dẫn vũ trụ chứ không phải chúng ta. Thiên Chúa đã che chở chúng ta trong lòng bàn tay của Ngài. Để đạt tới một mức độ bình an và thanh thản trong cuộc sống chúng ta cần thực hiện một bước có tính quyết định nhằm quy hướng toàn bộ đời sống ta về Thiên Chúa. Chúng ta được nghỉ ngơi trong sự che chở của Thiên Chúa. Chúng ta hiến dâng và phó thác mọi kết quả cho Thiên Chúa.
Bằng cách phó dâng, chúng ta có thể đặt trung tâm đời sống mình vào giây phút hiện tại. Y thức rằng Chúa sẽ giúp ta nhận ra điều ta cần phải hiểu biết miễn là ta biết lắng nghe những kinh nghiệm của mình và tin tưởng vào hoạt động của Thiên Chúa. Với thái độ sống phó thác liên lỉ nơi Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm lại được một niềm tin tưởng trọn vẹn nơi Thiên Chúa, nơi bản thân và nơi những người khác.
Đọc phần trích của thánh I-nhã một cách chậm rãi và suy niệm lại một lần nữa. Hãy chọn một đoạn nào đó mà dường như bạn bị thách đố hay được an ủi cách đặc biệt. Dừng lại ở điểm đó và suy gẫm xem nó có ý nghĩa gì đối với bạn.
Bạn đã bao giờ cảm thấy bất lực khi cố gắng làm chủ một sự đam mê hay khuynh hướng nào đó bên trong con người bạn chưa? Hãy suy gẫm một vài phạm vi trong cuộc sống mà bạn dường như bất lựckhi không có sự giúp dỡ của Thiên Chúa: có thể là một cuộc xung đột lâu dài với một ai đó hay với chính bạn, một sức ép buộc phải tỏa sáng hay thể hiện trong nhóm, cũng có thể là một khuynh hướng đòi hỏi phải thành công trong mọi tình huống hay một khát vọng muốn tỏ ra mình là người luôn quan trọng. Khi đụng đến sự bất lực của mình thì hãy nhớ rằng Thiên Chúa đã biết tình trạng thâm sâu của bạn và Ngài yêu bạn cách nhưng không. Hãy tâm sự với Thiên Chúa về sự bất lực của mình. bạn đã sẵn sàng dâng hiến mọi đam mê cho sự che chở của Thiên Chúa và mở lòng ra trước ân sủng và quyền năng của Thiên Chúa chưa?
Hãy liệt kê tất cả những quà tặng tuyệt diệu mà Thiên Chúa đã ban cho bạn: tình bạn khắn khít, mọi công việc tốt đẹp, những cống hiến tích cực cho gia đình hay cho cộng đoàn và nhiều điều khác nữa. Hãy thân thưa với Thiên Chúa về những món quà này. Liệu bạn có hiến dâng những món quà này cách dễ dàng không? Hãy tâm sự với Thiên Chúa và hỏi người xem bạn có thực sự xứng đáng với những món quà này chăng và tại sao chúng lại dược ban cho bạn?
Hãy suy gẫm với câu hỏi này: những phần nào của đời tôi mà tôi chưa sẵn sàng tuân theo thánh ý của Thiên Chúa ?
Liệt kê một số cách mà cuộc sống bạn tiến bộ hơn nếu bạn tuân theo thánh ý của Thiên Chúa ?
Viết lời nguyện của chính bạn lên Chúa. Hãy sắp xếp nó để nó tuân theo thánh ý của Thiên Chúa, những đam mê, tặng phẩm, sợ hãi và những thành tích của bạn. Hãy thường xuyên cầu xin điều này nhưng đặc biệt khi bạn cảm thấy bất lực hay hoàn toàn mạnh mẽ. Chính lời cầu nguyện của bạn nhắc nhở bạn biết rằng Thiên Chúa luôn là trung tâm của đời bạn.
Thánh I-nhã đã cử hành nghi thức dâng hiến của mình bằng việc canh thức võ trang trước tượng Đức Mẹ. Hãy tạo ra một nghi thức của chính bạn để xác định sự dâng hiến của bạn theo thánh ý của Thiên Chúa. Sau đó thực hiện việc dâng hiến của riêng mình giữ một vài biểu tượng hữu hình của quyết định mà bạn biến đời bạn cho Thiên Chúa. Khi cần được nhắc nhở về sự dâng hiến của bạn hãy suy nghĩ về biểu tượng này.
7 Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi.8 Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô9 và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin.10 Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người,11 với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.12 Nói thế, không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Ki-tô Giê-su chiếm đoạt.13 Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước.14 Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Ki-tô Giê-su.15 Vậy tất cả chúng ta là những người hoàn thiện, chúng ta hãy nghĩ như vậy; và giả như có điểm nào anh em nghĩ khác, thì Thiên Chúa sẽ mặc khải cho anh em.16 Song, dù đạt tới đâu đi nữa, chúng ta cũng cứ theo hướng ấy mà đi. (Pl 3: 7-16)
Kết nguyện: Lạy Chúa, xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu và trọn cả ý muốn của con cùng hết thảy những gì con có và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy Chúa đã ban cho con. Lạy Chúa, con xin dâng lại Chúa hết thảy, tất cả là của Chúa. Xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa. Chỉ xin bạn cho con tình yêu và ân sủng Chúa, được như thế là đủ cho con. Amen. (Spiritual Exercises, P.79)
Chủ đề: để hướng về Thiên Chúa, trước tiên thánh I-nhã thật sự cần đối mặt với tội lỗi và sự trống trải tâm hồn mình cùng với sự lệ thuộc vào Thiên Chúa. Thánh I-nhã đã cam kết với chính mình sống trung thực tuyệt đối.
Tiền nguyện: lạy Chúa, xin dò xét để biết rõ lòng con, xin thử con cho biết những điều con cảm nghĩ. Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời. (Tv 139,23-24)
Trong suốt thời gain dài dưỡng thương, thánh I-nhã cảm thấy đau đớn khi nhận ra mình yếu đuối cả về thể xác lẫn tinh thần. Những ý nghĩ về vinh hoa và thú vui trần gian mà trước đây đã làm cho ngài thích thú thì giờ đây lại làm cho ngài buồn bã và bị xáo trộn trong lòng. Những ý nghĩ chán nản này đã làm tổn hại cho ngài:
Kẻ ấy bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc hơn về đời sống quá khứ của mình và về nhu cầu mà kẻ ấy phải làm việc đền tội. Chính lúc ấy, kẻ ấy nảy sinh trong lòng ao ước bắt chước các thánh. Kẻ ấy không lưu ý đến hoàn cảnh riêng của từng vị, nhưng tự hứa với mình là , nhờ ơn Chúa, phải làm những việc các thánh đã làm. (Olin và Ocallaglan, Autobiography, tr. 24)
Thánh I-nhã bắt đầu suy xét một cách kỹ lưỡng và trung thực về đời sống của mình, điều này đưa đến việc ngài dấn thân hoàn toàn phục vụ Đức Giê-su. Như một phần của việc bình phục thiêng liêng, ngài đã hứa hành hương Giê-ru-sa-lem. Gia đình ngài phản đối mạnh mẽ cuộc hành hương nhưng ngài nhất quyết không thay đổi.
Anh trai kẻ ấy đã dẫn kẻ ấy đi từ phòng này sang phòng khác, tỏ vẻ ngạc nhiên và xin kẻ ấy đừng uổng phí đời mình, và phải nhận ra người ta kỳ vọng vào mình như thế nào về những điều có thể có, và những giá trị của mình. Tất cả những điều đó nhằm thuyết phục kẻ ấy bỏ đi ý hướng ngay lành của mình. Nhưng kẻ ấy đã trả lời anh mình cách khôn khéo không sai sự thật. Vì lúc này kẻ ấy rất sợ nói sai, và kẻ ấy thoát được người anh. (Olin và Ocallaglan, Autobiography, tr. 26)
I-nhã nhận ra rằng, để thật sự hoán cải, ngài cần phải trung thực với chính mình và với người khác.
Ngay từ khởi đầu chuyến hành hương, thánh I-nhã đã thực hiện được một bước trung thực triệt để nữa tại Montserat. Ngài đã quyết định làm một cuộc thanh tẩy mọi tội lỗi và đương đầu với gánh nặng lỗi lầm.
“Kẻ ấy dành ba ngày để xưng tội chung, các tội nghi trên giấy” (Olin và Ocallaglan, Autobiography, tr. 31). Mạt dù sau này bị dằn vặt vì các bối rối, I-nhã đã bắt đầu con đường nên thánh của mình qua việc hoàn toàn trung thực với chính mình trước mặt Thiên Chúa.
Điểm dừng: suy nghĩ câu hỏi này: tôi đang được mời gọi như thế nào cho sự trung thực lớn hơn về các suy nghĩ, cảm xúc, lời nói, hành động của tôi và các hậu quả kéo theo của chúng?
Trong suốt tuần thứ nhất của Linh Thao, thánh I-nhã hướng dẫn các thao viên suy gẫm về tội lỗi của họ và chuẩn bị lãnh nhận ơn tha thứ. Trùng hợp với lời kêu gọi của thánh Gio-an Tẩy Giả là nhìn nhận và ăn năn tội lỗi của chúng ta để chúng ta có thể quay trở về với Đức Ki-tô. Chính thánh I-nhã cũng thúc đẩy các thao viên làm như vậy. Trong bài linh thao thứ hai của Tuần I, thánh I-nhã đưa ra các chỉ dẫn:
Điểm 1: nhìn lại các tội của tôi. Tôi sẽ nhớ lại mọi tội lỗi tôi đã phạm trong đời bằng cách nhìn lại từ năm này sang năm khác, từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Có ba điều giúp tôi trong việc này: Thứ nhất: nhìn lại những nơi và nhà tôi đã ở; Thứ hai: xét lại những tiếp xúc tương quan của tôi với người khác; Thứ ba: xét lại những nghề nghiệp tôi đã làm
Điểm 2: cân nhắc các tội của tôi. Nhìn vào sự xấu xa và tác hại của các tội…
Điểm 3: xét xem Thiên Chúa mà tôi phạm đến là ai. Xét theo từng ưu phẩm của Ngài để so sánh với những điểm trái ngược của tôi. Sự khôn ngoan của Ngài với sự dốt nát của tôi, sự toàn năng của Ngài với sự yếu đuối của tôi, sự công chính của Ngài với sự bất chính của tôi, sự tốt lành của Ngài với sự độc ác của tôi.
Điểm 4: tiếng kêu thán phục với lòng xúc động mạnh mẽ. Tôi tưởng nghĩ đến mọi tạo vật. Làm sao mà chúng đã để cho tôi sống và gìn giữ cho tôi sống…. Làm sao lại có các tầng trời, mặt trời, mặt trăng, các tinh tú cùng các nguyên tố… rồi cả các hoa trái, chim chóc tôm cá và các giống xúc vật…. Tại sao chúng lại phục vụ nhu cầu của tôi? Tại sao đất không nứt ra để nuốt tôi vào trong lòng đất, ấn định số phận tôi đời đời đau khổ chia cắt khỏi Thiên Chúa.
Tâm sự: tôi sẽ kết thúc bằng cuộc tâm sự với Chúa, ca ngợi lòng thương xót của Chúa. Thân thưa với Chúa và tạ ơn Chúa đã ban cho tôi sống đến bây giờ. Tôi sẽ dốc lòng chừa cải từ nay về sau nhờ ơn Chúa giúp. (Tetlow, Spiritual Exercise, tr.26-27)
Khi kết thúc bốn tuần linh thao, thánh I-nhã thúc giục các thao viên phải trung thực trong việc nhìn nhận muôn ơn lành mà Chúa đã ban xuống cho họ, và trong việc nhận ra những điều họ cần phải chia sẻ cho người khác.
Suy Gẫm
Trung thực là một phần không thể thiếu của sự khiêm tốn. Có nghĩa là chấp nhận thân phận con người của ta, phải chấp nhận cả những đau khổ và hạnh phúc của thân phận thụ tạo chúng ta. Chúng ta chỉ là bùn đất được kêu gọi giữ lấy toàn bộ “cái là” của chúng ta. Để chấp nhận những giới hạn và để sử dụng các khả năng của mình đòi hỏi, chúng ta phải can đảm khiêm nhường hay chấp nhận sự thật đòi hỏi phải có lòng trung thực trung thực.
Trung thực là khiêm nhường đòi hỏi từ bỏ hoặc bỏ đi các ước muốn để có được sự kiềm chế, sự an toàn, sự tự quý và đón nhận. Khiêm nhường và trung thực kêu gọi ta phản tỉnh, như thánh I-nhã đã làm, các khuôn mẫu về lối sống khiến ta đi chênh con đường của Đức Ki-tô. Thật vậy, việc xét mình không thể thiếu đối với linh đạo thánh I-nhã. Những ai đến với ngài để xin hướng dẫn và xưng tội, ngài khuyên họ kiên trì xét hỏi linh hồn một cách kỹ lưỡng. Việc xét mình này là cơ sở và nền tảng cho sự chửa lành và đổi mới đích thực trong tâm hồn.
Thánh I-nhã xác định và gọi tên các tật xấu của mình theo cách ngài liên kết ý mình với ý Chúa hiện diện trong ngài. Chỉ có tình yêu và ân sủng Chúa mới có thể làm được điều này.
Cũng chính tình yêu và ân sủng này luôn có sẵn cho chúng ta. Với niềm tin và sự trợ giúp của Chúa, chúng ta có thể vui mừng chờ đợi sự tự do mà lòng trung thực của ta và ơn tha thứ của Chúa mang lại cho ta.
Đọc lại câu chuyện hoán cải của thánh I-nhã trong phần “Đôi Nét về Thánh I-nhã”. Anh ngài đã cố gắng làm cho ngài từ bỏ việc hoán cải tận căn theo Đức Kitô. Bất cứ ai, hoàn cảnh nào, hoặc những xung đột nội tâm nào có thể ngăn cản việc suy xét trung thực và đổi mới đời bạn không?
Làm một cuộc suy xét tình trạng tâm hồn bạn. Bạn có thể nhận thấy rằng thật hữu ích khi bạn ghi lại việc khảo sát lương tâm vào nhật ký thiêng liêng. Để tập trung suy niệm, hãy đặt một ảnh khổ nạn hoặc một tượng Chúa Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá trước mặt bạn, giữ tâm hồn và thân xác thinh lặng. Hãy tự nhủ rằng, Thiên Chúa tình yêu đang ở với bạn. Khẳng định rằng bạn lệ thuộc vào Thiên Chúa và hãy xin ơn mà bạn ước ao nhất khi bạn bước vào cuộc suy xét đời mình. Tâm sự với Chúa Giê-su như hai người bạn tâm sự với nhau. Mời Ngài đến trong lòng bạn. Nhớ rằng Chúa Giê-su đã trao ban chính sự sống của Ngài cho bạn. Sau đó bắt đầu cuộc suy xét hoặc là sử dụng các bước được liệt kê trong phần “Trích Lời Thánh I-nhã” hoặc dùng các câu hỏi sau:
Tôi có cho phép bản thân mình tin rằng Chúa Giê-su yêu tôi như tôi là chăng?
Tôi đã đáp lại tình yêu của Chúa Ki-tô như thế nào?
Hiệt tại tôi đang đáp trả tình yêu của Chúa Ki-tô như thế nào?
Nhu cầu của tôi về quyền điều khiển người khác, được kính trọng, hoặc được an toàn có làm tôi suy yếu việc dấn thân của tôi cho Tin Mừng không?
Tôi có trung thực với chính mình khi gặp những ép buộc và những vấp ngã của mình không?
Tôi có cố gắng thay thế việc thủ đắc sức khỏe, tiền tài, bằng cấp, sự quen biết, những phần thưởng, v. v… bằng sự lệ thuộc của mình vào tình yêu của Thiên Chúa không?
Tôi có cố giữ các cảm xúc của tôi và tôi có biết rõ điều gì trong tâm hồn tôi không?
Tôi có dùng thời gian suy niệm và cầu nguyện để hướng đời sống của tôi vào con đường của Chúa Giê-su không?
Những điều gì khác làm cho tôi đánh mất niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa và sống một đời sống yêu thương với anh chị em tôi?
Những tài năng, những phẩm chất và những kỹ năng nào Chúa đã ban cho tôi?
Những ân sủng nào khác mà Chúa đã đổ xuống cho tôi?
Tôi đã diễn tả lòng biết ơn với Đấng Tạo Hóa như thế nào?
Tâm sự với Chúa Giê-su một hoặc hai tình huống trong đời sống hiện tại của bạn mà bạn thấy lo lắng, xấu hổ, hoặc giận dữ – những tình huống mà bạn muốn hành xử giống Chúa Giê-su hơn.
Đọc kinh cám ơn về tất cả những ân huệ mà Chúa đã ban cho bạn.
Đọc “kinh xin ơn khiêm nhường” dưới đây, suy gẫm từng câu và ý nghĩa của các câu đối với bạn.
Lạy Chúa Giê-su, xin giải thoát con khỏi ước muốn: con được ca tụng.
Lạy Chúa Giê-su, xin giải thoát con khỏi ước muốn: con được danh dự
Lạy Chúa Giê-su, xin giải thoát con khỏi ước muốn: con được yêu thích.
Lạy Chúa Giê-su, xin giải thoát con khỏi ước muốn: con được tư vấn.
Lạy Chúa Giê-su, xin giải thoát con khỏi ước muốn: con được tán đồng.
Lạy Chúa Giê-su, xin giải thoát con khỏi ước muốn: con được tiện nghi và sự dễ dãi…
Lạy Chúa Giê-su, xin giải thoát con khỏi nỗi sợ bị phê bình.
Lạy Chúa Giê-su, xin giải thoát con khỏi nỗi sợ bị xa tránh.
Lạy Chúa Giê-su, xin giải thoát con khỏi nỗi sợ bị bỏ quên.
Lạy Chúa Giê-su, xin giải thoát con khỏi nỗi sợ bị đơn độc.
Lạy Chúa Giê-su, xin giải thoát con khỏi nỗi sợ bị thương tích.
Lạy Chúa Giê-su, xin giải thoát con khỏi nỗi sợ bị đau khổ.
….
Ôi Giê-su hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin cho con được sức mạnh giống như Ngài. Amen. (J. Veltri, comp., Orientations, Volume 1, tr. 108).
Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm.
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.
Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.
Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa,
dám làm điều dữ trái mắt Ngài.
Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án,
liêm chính khi xét xử.
Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi,
đã mang tội khi mẹ mới hoài thai.
Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật,
dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan.
Xin dùng cành hương thảo
rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền;
xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết.
Xin cho con được nghe
tiếng reo mừng hoan hỷ,
để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng.
(Tv 51, 3-10)
Kết nguyện: Lạy Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống trái tim Chúa.
Chủ đề: việc vâng phục Thần Khí của Đức Giê-su đã định hình cuộc sống của thánh I-Nhã. Những đặc tính ứng trực, di động, bao hàm là những biểu hiện của đức vâng phục của ngài.
Tiền nguyện: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con một trái tim biết vâng phục. Xin hãy mở tai con để con luôn lắng nghe và đáp trả lời Ngài trong mọi hoàn cảnh đời ống của con.
Ngay lúc ban đầu trên hành trình thiêng liêng của mình, thánh I-Nhã đã học được bài học này: “Vâng lời thì trọng hơn của lễ?” (1 Sm 15,22). Sau khi dâng mình cho Chúa, thánh I-Nhã đã học vâng phục ngang qua cuộc chiến đấu với những cám dỗ.
Mặc dù xưng tội chung đã được kẻ ấy thực hiện ở Montserrat với đầy đủ sự quan tâm và đã được viết ra rất đầy đủ chi tiết, như đã nói, đôi khi kẻ ấy cho là còn chút ít điều gì đó chưa xưng thú. Điều này gây cho kẻ ấy nhiều đau khổ, bởi vì dù đã xưng thú tội đó, kẻ ấy vẫn không yên lòng. Vì thế, kẻ ấy bắt đầu tìm kiếm những người những người thiêng liêng có thể chữa trị kẻ ấy khỏi những bối rối này, nhưng không ai có thể giúp kẻ ấy được. Cuối cùng, một người rất thiêng liêng, là một tiến sĩ giảng dạy ở nhà thờ Chính Tòa, một hôm trong tòa giải tội đã bảo kẻ ấy viết ra tất cả những gì nhớ được. Kẻ ấy làm theo, nhưng sau khi xưng tội, các bối rối ấy vẫn quay trở lại mỗi lần một tinh vi hơn khiến kẻ ấy rất buồn phiền. Kẻ ấy nhận ra rằng những bối rối đó làm hại kẻ ấy nhiều và cần phải đuổi chúng đi nhưng kẻ ấy không tự mình làm nổi. Đôi khi kẻ ấy nghĩ rằng có thể chữa trị được nếu như cha giải tội nhân danh Đức Giê-su Ki-tô ra lệnh cho kẻ ấy không được xưng thú bất cứ điều gì trong quá khứ. Kẻ ấy muốn cha giải tội hướng dẫn mình theo cách ấy, nhưng không dám đề đạt với ngài.
Tuy nhiên, dù không có lời đề đạt của kẻ ấy, cha giải tội lệnh cho kẻ ấy không xưng bất cứ tội nào trong quá khứ, ngoại trừ có điều gì đó rất rõ ràng. Nhưng bởi vì kẻ ấy nghĩ mọi sự đều rõ nét nên lệnh ấy không đem lại lợi ích gì cho kẻ ấy, và như vậy, kẻ ấy tiếp tục gặp khó khăn…. Nhiều tháng đã trôi qua kể từ khi những bối rối bắt đầu hành hạ kẻ ấy…. Sau đó, chợt đến trong tâm trí kẻ ấy câu chuyện về một vị thánh, để nài xin Thiên Chúa một điều vị ấy rất ước mong, vị ấy đã nhịn ăn nhiều ngày cho tới khi nhận được ơn đó. Nghĩ về chuyện này một lúc lâu, cuối cùng kẻ ấy quyết định làm như vậy; kẻ ấy tự nói với lòng mình rằng sẽ không ăn, không uống cho tới khi Chúa tới cứu hoặc cho tới khi kẻ ấy nhận thấy rằng tới lúc kẻ ấy sẽ chết nếu không ăn gì cả, kẻ ấy sẽ quyết định xin bánh mì để ăn (làm như vào thời điểm đó kẻ ấy còn có thể đi xin và ăn được).
Việc này đã diễn ra vào một ngày Chúa Nhật, sau khi rước lễ, kẻ ấy bắt đầu nhịn đói suốt cả tuần mà không bỏ bất cứ thứ gì vào miệng mà không ngừng các việc đạo đức hằng ngày, ngay như việc đi đọc kinh phụng vụ và quỳ gối cầu nguyện, thức dậy lúc nửa đêm v.v…. Nhưng vào Chúa Nhật sau đó, kẻ ấy đi xưng tội. Vì kẻ ấy thường kể với cha giải tội rất chi tiết những việc kẻ ấy đã làm, kẻ ấy cũng kể cho cha nghe việc kẻ ấy đã nhịn ăn trong suốt một tuần như thế nào. Cha giải tội ra lệnh cho kẻ ấy phải chấm dứt việc nhịn đói; mặc dù thấy mình vẫn khỏe, kẻ ấy đã vâng lời cha giải tội. Hôm đó và hôm sau, kẻ ấy cảm thất thoát khỏi cái bối rối. (dịch theo Olin and O’Callagham, Autobiography, các trang số 34-36).
Điểm dừng: Hãy suy xét những tâm tình của bạn về từ ngữ “vâng phục”. Đức vâng phục có vị thế nào trong cuộc sống của bạn.
Trong một bức thư gởi các anh em Giê-su hữu của mình, thánh I-Nhã viết như sau:
Điều mà Thiên Chúa chúng ta ban cho tôi là ước vọng thấy được anh em trở nên trổi vượt trong đức vâng phục hơn là trong bất cứ nhân đức nào khác; không chỉ bởi vì điều tốt lành được tìm trong riêng đức vâng phục, như Kinh Thánh đã ca ngợi như vậy với những mẫu gương và những diễn từ nơi Cựu Ước và Tân Ước, mà còn vì (như thánh Grêgoriô nói): “đức vâng phục là một nhân đức mà tự nó ghi khắc trong tâm hồn mọi nhân đức khác, và một khi đã được in dấu, đức vâng phục sẽ gìn giữ các nhân đức nơi tâm hồn”. Chừng nào đức vâng phục còn triển nở, các nhân đức khác sẽ còn được tìm thấy là đang triển nở và trổ sinh hoa trái. Tôi cầu chúc cho tâm hồn anh em được cùng với ước vọng như Chúa chúng ta. Vì vâng phục, Người đã cứu độ một thế giới sống bất tuân.
Tôi cầu nguyện cho anh em, vì tình yêu của Đức Ki-tô Chúa chúng ta, để anh em không chỉ tuân giữ đức vâng phục mà còn vượt lên trước với mẫu gương của Người về đức vâng phục, để trí hiểu và tình yêu đích thực của Thiên Chúa chúng ta có thể chiếm hữu hoàn toàn và hướng dẫn tâm hồn anh em qua cuộc đời hành hương này,với nhiều mẫu gương khác nữa qua những phương tiện của anh em, nhằm đạt tới cùng đích và hạnh phúc viên mãn trong niềm hạnh phúc của Người.
Suy gẫm
Hạn từ “vâng phục” phát xuất từ một từ Latinh có nghĩa là lắng nghe. Thánh I-Nhã đã lắng nghe Chúa nói qua vị giải tội và nơi trái tim của Ngài. Khi vâng lời là ngài quảng đại phó dâng ý mình theo ý Chúa, trái tim của I-Nhã đã trải qua một cuộc biến đổi. Sau hết, ý Chúa muốn chúng ta yêu Ngài, yêu anh chị em mình và yêu chính bản thân mình. Nhờ vâng lời cha giải tội, thánh I-Nhã giải phóng mình khỏi các bối rối, ngài nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình. Biến cố này trở thành một tiêu chuẩn cho toàn bộ cuộc đời của I-Nhã. Trong câu chuyện cuộc đời ngài, ta nhận thấy nhiều thí dụ khác nữa về việc I-Nhã lắng nghe và làm theo ý Chúa.
Qua sự vâng phục của ngài, sự sung mãn của Thánh Thần có thể hoạt động trong I-Nhã. Thật nghịch lý, khi I-Nhã quy phục ý muốn của Chúa được nói qua Kinh Thánh, qua những vị hướng dẫn thiêng liêng, qua những đấng bản quyền của Giáo Hội, qua những kinh nghiệm và nơi con tim của riêng ngài, ngài có thể bước từng bước đầy tự tin trên hành trình thiêng liêng.
Bằng cách nào chúng ta nghe được ý muốn của Chúa? Khi nào chúng ta biết vâng lời? Hãy nhớ rằng Thiên Chúa muốn chúng ta phải biết yêu thương vì chính chúng ta đã được yêu thương, muốn chúng ta được đầy tràn niềm tin và hy vọng, và muốn chúng ta bước vào cuộc sống sung mãn. Bạn hãy tự hỏi bản thân mình câu hỏi sau đây, và viết câu trả lời cho từng câu hỏi; hãy để những ý tưởng và những mẫu gương tự do tuôn chảy từ trí nhớ, trí tưởng tượng và trí hiểu của bạn:
Ai là tất cả những người tôi yêu, và những người yêu tôi?
Tôi đặt niềm tin vào ai và vào điều gì? Đâu là ánh sáng soi dẫn đức tin của tôi trong cuộc sống?
Những nguồn hy vọng của tôi là gì? Điều gì mang lại cho tôi sự mong đợi rằng, bằng cách nào đó, thì kết cục sẽ tốt đẹp?
Đã bao giờ tôi xem việc tôi đáp trả những người này và những nguồn tin, cậy mến như việc vâng theo Thánh Ý của Thiên Chúa chưa? Có bao giờ tôi khước từ sự vâng phục lời mời gọi của Chúa để yêu thương, tin tưởng, và hy vọng vào Chúa?
Trong cầu nguyện, hãy tạ ơn Chúa về bao lần bao lần bạn đã vâng theo ý Chúa để yêu thương, tin tưởng và được chứa chan hy vọng.
Cầu xin lòng tha thứ của Chúa vì những lần bạn bất tuân theo ý Chúa.
Suy niệm về những cách thức mà bạn có thể vâng phục ý Chúa hơn và có thể kiên quyết, lắng nghe và vâng theo ý Chúa một cách toàn tâm toàn ý hơn.
Thánh I-Nhã đã đưa vào cộng đoàn Giê-su hữu của ngài một cách thực hành gọi là “cởi mở lương tâm”. Mỗi thành viên trong cộng đoàn (mỗi tu sĩ trong dòng) được đề nghị phải cam kết chia sẻ một cách cởi mở với bề trên của mình tất cả những niềm vui, nỗi buồn, những thành công hay thất bại của mình. trong cùng một tinh thần như vậy, bạn hãy chia sẻ với một người khôn ngoan và đáng tin cậy về kinh nghiệm vâng phục, chịu chống đối và những thất bại của riêng bạn, và cả những ân huệ bạn đã nhận lãnh khi sẵn lòng vâng phục.
Hãy vẽ một bức tranh về một khu vườn. Tại chính giữa khu vườn của bạn, hãy vẽ một biểu tượng cho đức vâng phục. Xung quanh biểu tượng đó, hãy phát họa những biểu tượng nữa tượng trưng cho kinh nghiệm của bạn về sự vâng phục.
Suy niệm với bức tranh của bạn. Bạn thấy những tâm tình của mình ra sao về đức vâng phục được trình bày trong bức tranh? Phải chăng hoa trái sự vâng phục của bạn rất rõ nét?
Đặt tên cho bức tranh của bạn bằng một câu trích từ kinh thánh bao gồm lời mời gọi và ý nghĩa của sự vâng phục đối với bạn.
Hãy mời Đức Giê-su dạo bước cùng bạn trong khu vườn đó. Hãy chia sẻ và thưởng thức hoa trái trong khi vườn của bạn với Đức Giê-su.
Lời Chúa
7 Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính.8 Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục;9 và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người,10 vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê. (Dt 5,7-10)
Kết nguyện: Lạy Chúa, chúng con nguyện xin Chúa đổ tràn trên chúng con ánh sáng và sự sống của Ngài, để chúng con có thể thấy được từ bên trong chúng con vinh quang kỳ diệu của Ngài. Xin ban tình yêu Chúa chứa chan đời sống chúng con, ngõ hầu chúng con có thể coi là không có khó khăn để chịu đựng.
Chủ đề: thánh I-Nhã đã có một đời sống thâm sâu và khắng khít với tâm điểm là Đức Ki-tô. Dần mọi thời khắc trong cuộc đời của ngài đều trở nên một sự đáp trả trước lời mời gọi của Đức Ki-tô, đó là “mecum”, nghĩa là “ở với ta”.
Nhập nguyện: Lạy Thiên Chúa tình yêu, xin cho con luôn nghe được tiếng nói của Ngài trong tâm hồn con và đáp lại lời mời gọi nên một với Ngài: “dậy đi em, bạn tình của anh, người đẹp của anh, hãy ra đây nào.” (Dc 2,10).
Thiên Chúa đã xác định tình yêu cao cả tình yêu cao cả của thánh I-Nhã trong khi “kẻ hành hương” đang lên đường tới Rôma lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng trong đời ngài.
Sau khi thụ phong linh mục, kẻ ấy đã quyết định không dâng Thánh lễ trong vòng một năm để dọn mình và khấn xin Đức Mẹ thương đặt mình với con của mẹ. Một hôm, trong khi kẻ ấy đang cầu nguyện trong một nhà thờ (ở La Storta) cách mấy dặm nữa là tới Rôma, kẻ ấy cảm thấy có một sự biến đổi trong tâm hồn và thấy rõ Thiên Chúa Cha đặt mình với Đức Ki-tô là Con của Người, đến nỗi kẻ ấy không bao giờ dám nghi ngờ việc Thiên Chúa Cha đã đặt mình với con của Người.
… Với một cảm nhận sâu sắc, thánh I-nhã đã cho thấy chính ngài như là người đã kết hiệp trọn vẹn với Đức Ki-tô; và ngài cũng khát khao rằng, Dòng Chúa Giê-su (Dòng Tên), một dòng do ngài thành lập, cũng sẽ được dâng hiến hoàn toàn cho Đức Giê-su và mang danh thánh Giê-su.
Kinh nghiệm về sự ưng thuận và xác chuẩn cách mầu nhiệm ở La Storta sẽ luôn mãi có ý nghĩa quan trọng đối với thánh I-nhã. Ngài đã liên tục đề cập kinh nghiệm đó trong nhật ký và những tài liệu viết tay khác. thị kiến giữ vai trò như là một khung tham chiếu và nguồn an ủi. Ví dụ, trong nhật ký, khi viết về quyết định xem xét việc thực hành đức khó nghèo đối với cộng đoàn Giê-su hữu, thánh I-nhã đã nói rằng: ngài đã đạt được một sự tin tưởng hoàn toàn từ thị kiến.
Việc Đức Giê-su tỏ mình ra cho kẻ ấy hoặc để cho kẻ ấy cảm nhận được Ngài, dường như đối với kẻ ấy một cách nào đó là công việc của Chúa Ba Ngôi chí thánh, và kẻ ấy nhớ lại lúc Chúa Cha đặt kẻ ấy với Chúa Con. Những ý nghĩ này không ngừng lớn mạnh và dường như là một xác chuẩn, cho dù kẻ ấy không nhận được an ủi nào về việc này.
Thánh I-nhã đã ghi nhận mục đích chính yếu này bằng cách khoanh tròn chúng lại như ngài đã từng làm với tất cả những đoạn ngài cho là quan trọng.
Điểm dừng: Gương thánh I-nhã có làm bạn khát khao kết hiệp mật thiết với Đức Ki-tô không?
Trong việc huấn luyện các thành viên mới của Dòng Tên, thánh I-nhã đã nói như sau:
Điều rất giá trị và tối quan trọng là… nhận lấy và hết sức ước ao tất cả những gì Chúa chúng ta là Đức Ki-tô yêu mến và tha thiết. Vì như người đời theo đuổi những gì phàm tục, yêu mến và mãi mê tìm kiếm vinh dự, danh thơm tiếng tốt trên đời, như thế gian dạy bảo họ, thì những ai bước đi trong thần khí, và thật sự theo Chúa chúng ta là Đức Ki-tô, cũng phải mãnh liệt yêu mến và ao ước… mặc lấy cùng thứ quần áo và trang phục hạng tôi tớ mà Người đã thừng mặc, vì kính trọng và yêu mến Người. Thậm chí nếu không vì thế mà Thiên Chúa chí tôn bị xúc phạm hoặc gây dịp tội cho tha nhân, thì họ khao khát chịu sự lăng mạ, cáo gian, sỉ nhục, cùng muốn bị coi và đối xử như kẻ điên dại (nhưng không tự ý gây dịp để bị coi như thế), vì ao ước nên giống và bắt chước phần nào Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô, bằng cách mặc lấy quần áo và trang phục hạng tôi tớ của Người. Vì chính Người đã mặc lấy để mưu ích thiêng liêng cho chúng ta hơn. Người đã làm gương cho chúng ta, để nhờ ơn Người trợ giúp, chúng ta muốn hết sức bắt chước và theo chân Người trong mọi sự, vì Người là đường dẫn đưa con người đến sự sống.
Suy gẫm
Đức Ki-tô Giê-su luôn mời gọi các tín hữu kết hiệp với Ngài. Thiên Chúa trao ban cho chúng ta những hồng ân tương tự như đã ban cho thánh I-nhã ở La Storta: đó là mặc lấy Đức Ki-tô, sống trọn đời theo đường lối của Ngài và hướng tất cả mọi hành động của chúng ta theo gương Đức Giê-su trong Tân Ước và ngang qua hành động của Chúa Thánh Thần trong chúng ta.
Ngay ban đầu thánh I-nhã đã chọn danh xưng Đoàn Giê-su cho những người sống theo linh đạo của ngài. Danh xưng này được bắt nguồn từ sự tín thác của thánh I-nhã: ngài và những người bạn của ngài được mời gọi để sống “một đời sống phục vụ Thiên Chúa cùng với Đức Ki-tô, nhờ Đức Ki-tô, trong Đức Ki-tô và như Đức Ki-tô”.
Tất cả chúng ta được mời gọi để trở nên bạn đường của Đức Giê-su. Thiên Chúa đã chọn chúng ta ở trong sự bao bọc yêu thương của Thiên Chúa như Đức Giê-su. Mặc dầu chúng ta, cũng giống như thánh I-nhã, có thể cũng phải chịu những đau khổ từ những chống đối nhỏ hay lớn, nhưng cuối cùng Thiên Chúa cũng sẽ nuôi dưỡng chúng ta nếu như chúng ta nhận ra và đón nhận sự nâng đỡ của Ngài.
Chiêm ngắm một bức ảnh thánh hay bức ảnh Đức Ki-tô với các bước sau:
Để cho cơ thể trong trạng thái thoải mái nhất. Hít thở thật sâu. Đặt tâm điểm vào bức hình hay bức ảnh Đức Ki-tô. Nhìn sâu vào đôi mắt của Ngài. Lắng nghe một khát vọng sâu thẳm nhất trong tâm hồn bạn. Suy gẫm lời của Đức Giê-su nói với các môn đệ: “người ta bảo thầy là ai?” (Mc 8,28).
Bạn trả lời Đức Giê-su như thế nào? Cuộc sống của bạn chứng thực Đức Giê-su là ai?
Trong tuần thứ hai của linh thao, thánh I-nhã mời gọi chúng ta xác định rõ khát khao của mình để kết hiệp hoàn toàn vào Đức Ki-tô. Trong bài “Hai Cờ hiệu”, chúng ta được hướng dẫn để suy xét những cách thế mà Đức Giê-su dẫn đưa con người tới cuộc sống hoàn thiện trái ngược với cách của Satan kẻ thù của bản tính con người chúng ta, trói buộc và bắt chúng ta làm nô lệ chúng. Để biểu lộ khát khao của bạn được nên một với Đức Ki-tô, hãy cầu nguyện theo cách thức như sau:
Bắt đầu bằng việc xin Thiên Chúa ban cho chúng ta hiểu và khao khát cuộc sống mà Chúa Giê-su dạy chúng ta.
Chú ý thật kỹ những câu chuyện, những dụ ngôn trong Tân Ước, khám phá ra những bài học Chúa Giê-su đã dạy cho những người bước theo ngài, Chúa Giê-su đã mời gọi dân chúng hướng tới điều gì? Cách Người mời gọi như thế nào?
Xin Đức Maria cầu thay nguyện giúp cho bạn để bạn được ơn sống lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Hãy xin cho bạn luôn được ơn dám dứt bỏ tất cả mọi sự đến mức bạn có thể sẵn sàng đặt tất cả tài năng, của cải, và những thành quả của bạn vào việc phục vụ Chúa Ki-tô. Cầu xin để được bước theo mẫu gương của Đức Giê-su cho đến tận cùng. Miễn là không được gây dịp tội cho tha nhân và nếu là ý Chúa thì hãy xin cho bạn, giống như Đức Ki-tô, có được can đảm và sức mạnh để chịu đựng sự nghèo khó và bách hại đối với bản thân. Sau đó, đọc kinh Kính Mừng.
Hiệp thông với Đức Maria, bạn hãy tiến gần đến với Chúa Giê-su, là dâng lên Chúa lời nguyện tha thiết tương tự như trên để Chúa thương ban cho bạn những ân sủng mà bạn đang kêu xin. Cuối cùng, thật chậm rãi, dừng lại để suy niệm ý nghĩa của mỗi câu văn trong lời kinh “Lạy Linh Hồn Chúa Ki-tô”
Lạy linh hồn Chúa Ki-tô, xin thánh hóa con
Lạy xác thánh Chúa Ki-tô, xin cứu thoát con
Lạy máu thánh Chúa Ki-tô, xin làm cho con say mến
Lạy nước bởi nương long Chúa Ki-tô, xin tẩy rửa con
Lạy sự thương khó Chúa Ki-tô, xin thêm sức cho con
Lạy Chúa Giê-su nhân ái, xin nhận lời con
Xin giấu ẩn con trong các vết thương Chúa
Xin cho con đừng bao giờ lìa xa Chúa
Xin gìn giữ con khỏi kẻ thù tinh quái
Đến giờ lâm tử, xin Chúa gọi con, và cho con đến cùng Chúa
Để con được cùng các thánh ca tụng Chúa muôn đời. Amen.
Trong sự hiện diện của Chúa Giê-su và Đức Maria, nhờ lời chuyển cầu của các ngài, hãy tiến đến gần với Thiên Chúa. Một lần nữa, hãy lặp lại ơn xin ở trên là được kết hiệp trọn vẹn với Đức Ki-tô. Đọc Kinh Lạy Cha.
Suốt ngày sống, hãy cầu nguyện những lời sau của thánh I-nhã: “nhờ Đức Ki-tô, trong Đức Ki-tô, và như Đức Ki-tô”.
9 Anh em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi,10 và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa, để được ơn thông hiểu.11 Vậy không còn phải phân biệt Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Ki-tô là tất cả và ở trong mọi người.
12 Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại.13 Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau.14 Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.15 Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân. (Cl 3,9-15)
Kết nguyện: “Lạy Cha hằng hữu, xin chuẩn nhận con; Lạy Chúa Con hằng hữu, xin cũng cố con; Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng vĩnh cữu, xin thêm sức cho con; Lạy Ba Ngôi cực thánh, xin đón nhận con; Lạy Thiên Chúa duy nhất, xin cũng cố con”