Ở nước ta, việc xâm phạm các quyền sở hữu trí tuệ không phải hiếm – điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền này. Vì vậy, dịch vụ tư vấn luật sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên cần thiết trong giai đoạn hội nhập hiện tại. Nhưng, nội dung tư vấn luật sở hữu trí tuệ thông thường là tư vấn những gì? Trong phạm vi bài viết, chúng tôi sẽ làm rõ về vấn đề này.
Hiện nay, vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về sở hữu trí tuệ. Tùy vào cách nhìn nhận, các góc độ và lĩnh vực khác nhau, thuật ngữ sở hữu trí tuệ có những cách hiểu không giống nhau. Nôm na có thể hiểu, sở hữu trí tuệ là việc sở hữu các sản phẩm trí tuệ. Đặc trưng của các sản phẩm trí tuệ là sản phẩm vô hình, kết tinh từ hoạt động lao động sáng tạo của con người.
Theo đó, dẫn đến phát sinh khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ (là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng). Trong đó:
Đối tượng của quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa;
Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý;
Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật liệu nhân giống.
Dịch vụ tư vấn luật sở hữu trí tuệ hiện nay
Căn cứ Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ 2005, quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.
Quyền sở hữu công nghiệp được xác lập như sau:
Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó;
Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó;
Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được xác lập trên cơ sở hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh.
Trong đó, theo quy định tại Điều 202 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009 thì các biện pháp dân sự bao gồm:
Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;
Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
Buộc bồi thường thiệt hại;
Buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.