Do dạy về các quá trình hoá lý và công nghệ sản xuất nên các bài tập tôi giao cho sinh viên thường là tổng quan về một kỹ thuật sản xuất hoặc giải bài tập tình huống (giả định hoặc thực tế). Đây là những bài tập đòi hỏi nhiều công sức nên thường được giao dưới dạng bài tập nhóm. Sinh viên nộp tiểu luận hoặc slide trước, thuyết trình sau. Mục tiêu của hai loại bài tập này là để sinh viên hợp tác tìm kiếm tài liệu, tổng quan và vận dụng kiến thức đã học.
Trong nhiều học kỳ, sau khi giao bài tập, thứ tôi nhận được đôi khi là bản sao chép vội từ wikipedia tiếng Việt hoặc trang web của một công ty thương mại, hoặc các trang bán tài liệu trực tuyến. Trên bài mà sinh viên nộp vẫn còn nguyên vết sao chép như phông chữ, màu nền hay văn bản liên kết (link text). Thậm chí, có nhóm còn lười đến mức thay thế toàn bộ một cụm danh từ trong bài gốc thành cụm danh từ mà tôi đưa ra trong đề bài dù chúng chẳng hề liên quan đến nhau. Ở những trường hợp này, sinh viên hoàn toàn không đọc lại vở của mình, giáo trình hay tệp bài giảng đã đưa từ đầu khóa học, và họ cũng hoàn toàn không trả lời được câu hỏi của giáo viên sau khi thuyết trình xong. Tôi cảm thấy rất bực bội trong lòng vì không đạt được mục tiêu.
Khi bình tĩnh lại, tôi đã đặt một loạt câu hỏi cho bản thân. Nguyên nhân của hiện tượng này là gì? Do sinh viên có quá nhiều bài tập được giao cùng thời điểm? Do sinh viên còn bận mải với việc kiếm tiền đang rất dễ dàng ở Hà Nội? Do sinh viên lười, để đến phút cuối mới nộp bài? Phải chăng bản thân tôi là một chiếc máy photocopy đã lỗi thời? Tôi đã giao loại bài tập không phù hợp với kiến thức và kỹ năng của sinh viên? Câu hỏi của tôi chưa đủ ý? Tôi chưa có quy định và công cụ để phòng tránh đạo văn? Hay do rất nhiều nguyên nhân khác nhau? Tôi đã cố tìm cách tháo gỡ từng nguyên nhân mà bản thân có thể đoán được.
Khi nói chuyện với một giáo sư nước ngoài đang hỗ trợ xây dựng chương trình đào tạo cho một dự án đại học, tôi thấy rằng ngoài mục tiêu, nội dung, chuẩn đầu ra và tính tiếp sức của các học phần, bà giáo sư còn rất quan tâm đến việc dàn tải cho sinh viên. Cụ thể, bà rất quan tâm đến thời điểm và thời hạn giao bài tập và bài kiểm tra giữa kỳ của từng học phần vì chúng sẽ ảnh hưởng đến tâm lý và sức khỏe của sinh viên cũng như chất lượng lời giải. Tiếp thu điều đó, tôi đã cho phép sinh viên được tối đa một lần thương lượng về thời hạn nộp bài nếu lý do là tải bài tập/bài kiểm tra quá dày đặc trong một hoặc hai tuần. Nhờ vậy, chất lượng lời giải của sinh viên có được cải thiện chút ít. Tuy nhiên, nhiều nhóm sinh viên vẫn chưa đạt kỳ vọng của giáo viên nên tôi lại tiếp tục hành trình tháo gỡ khó khăn.
Một lần, tôi hỏi sinh viên ngay sau khi giao bài tập: "Với loại câu hỏi này, các em thấy cần trình bày những ý chính nào?" Chỉ có vài em, chủ yếu là những sinh viên khá và mạnh dạn của lớp, nêu được những ý chính giống như kỳ vọng của giảng viên. Ngay đến ý chính mà số đông còn không nêu ra được thì có vẻ như tôi đã đặt kỳ vọng quá cao về khả năng tư duy của sinh viên hoặc là câu hỏi của tôi chưa đủ rõ ràng. Với suy nghĩ đó, tôi đã làm một danh mục kiểm tra (checklist), về sau tôi làm ma trận đánh giá (rubric) và gửi kèm bài tập cho sinh viên. Trong các ma trận đánh giá đều có phần đánh giá về đạo văn và dẫn nguồn tài liệu tham khảo. Ở bước cải tiến thứ hai này, tôi khá hài lòng với bài viết và các trang trình chiếu (slides) của sinh viên.
Mặc dù hài lòng về phần viết và thuyết trình, nhưng tôi lại không hài lòng về phần vấn đáp vì sinh viên khá rụt rè và căng thẳng khi trả lời câu hỏi của giáo viên. Một vài lần nghỉ giữa giờ, tôi đã nán lại phòng học để quan sát sinh viên, thấy rằng các em chơi đùa rất vui vẻ, đến em sinh viên nhút nhát nhất cũng có phút gương mặt bừng sáng và rạng rỡ. Thế là, bước cải tiến thứ ba được bắt đầu. Lần này, ngoài câu hỏi và ma trận đánh giá như thông thường, nội dung bài tập có thêm phần đặt câu hỏi cho các nhóm khác, được tính điểm thảo luận với trọng số đến 40%. Tôi áp dụng bốn quy định đặt câu hỏi: 1) Không được hỏi về những số liệu có thể tra cứu được trong sổ tay, khuyến khích câu hỏi yêu cầu so sánh và lý giải; 2) Câu hỏi được bạn chọn để trả lời sẽ có điểm bằng một nửa câu hỏi không được chọn để trả lời; 3) Mỗi sinh viên được đặt tối đa một câu hỏi sau mỗi bài thuyết trình; 4) Sinh viên có thể đạt nhiều hơn 100% kỳ vọng nhưng chỉ được lấy 100% thôi. Hai quy định đầu là để sinh viên chịu lắng nghe bài thuyết trình của bạn, suy nghĩ và tìm câu hỏi có chiều sâu. Hai quy định cuối là để khuyến khích sinh viên đặt nhiều câu hỏi nhất có thể. Kết quả là các em rất sôi nổi, thậm chí tranh luận khá gay gắt trong phần thảo luận, còn tôi thì khá nhàn, chỉ thỉnh thoảng đặt câu hỏi có tính chất gợi ý, chủ yếu ngồi cười vì sinh viên hăng quá. Tôi đã thành công trong việc biến hình những chiếc máy photocopy nhưng không thể áp dụng được phương án này ở những lớp có quy mô lớn vì cuộc thảo luận tốn rất nhiều thời gian. Vì vậy, tôi vẫn đang tiếp tục học kỹ năng nghề nghiệp khi đã ngoài 40 tuổi với gần 20 năm kinh nghiệm giảng dạy.
Với công nghệ thông tin và thiết bị thông minh phát triển ào ạt như hiện nay, việc tìm kiếm phương pháp sư phạm phù hợp để áp dụng vào hệ sinh thái dạy-học đương đại quả thực là một công cuộc học tập lâu dài đối với bản thân tôi.