Never Give Up!
Con số 7 thiêng liêng
Đối với nhiều dân tộc trong thế giới cổ đại, con số 7 được coi là đặc biệt. Trong triết học và thiên văn học của Ai Cập và Babylon, con số 7 được coi là tổng của hai "con số sống còn": ba và bốn; ba người là cha, mẹ và con tạo nên cơ sở của cuộc sống; còn con số bốn - đó là số nước trên thế giới và các hướng gió đem lại mưa, ẩm làm cho đất đai phì nhiêu, cây cối đơm hoa kết quả.
Nhà triết học và toán học Hy Lạp Pitago (Pythagore) sống ở thế kỷ VI trước CN cũng đã gán cho con số bảy một ý nghĩa đặc biệt - đó là tổng của hai con số ba và bốn: hình tam giác và hình tứ giác, được các nhà toán học cổ đại coi là biểu hiện của sự trọn vẹn và hoàn thiện. Bởi vậy số 7 là tổng của ba và bốn được họ chấp nhận là con số thiêng liêng.
Tính đặc trưng của con số 7 đã khích lệ nhiều họa sĩ sáng tạo những tác phẩm xuất sắc. Đặc biệt nổi tiếng là những hình tượng về bảy tội qua các bức tranh của Pieter Bruegel (1520-1569). Bảy bí tích trong Công giáo cũng được thể hiện trong nghệ thuật tạo hình:
Sự giận dữ
Sự lười biếng
Sự phàm ăn
Sự vô độ
Tính đố kỵ
Tính keo kiệt
Tính kiêu mạng
Ngay cả nhưng người Do Thái thời cổ đại cũng coi trọng con số bảy. Trong Kinh Cựu ước có nói: "Thượng đế đã làm việc sáu ngày để sáng tạo trời và đất, biển và tất cả mọi thứ, còn ngày thứ bảy thì nghỉ". Từ đó ngày thứ bảy được coi là ngày thiêng liêng, những người Do Thái và tất cả những người theo đạo Thiên Chúa công nhận Kinh Cựu ước đều coi con số bảy là con số thiêng liêng.
Từ xa xưa, con số bảy đã có nhiều cách vận dụng tượng trưng khác nhau. Chẳng hạn, người Hy Lạp cổ đại hàng năm đều lựa chọn ra bảy diễn viên bi và hài. Người La Mã cổ đại cũng vậy, hàng năm họ suy tôn bảy nhà thông thái và thành phố La Mã được xây dựng trên bảy ngọn đồi. Trong đạo Thiên chúa, người ta quy định bảy tội và bảy bí tích.
Người Hồi giáo coi nơi khai sáng cao cả là bầu trời thứ bảy. Trong các truyện cổ tích ở đâu ta cũng gặp con số bảy bí ẩn: nàng công chúa và bảy chú lùn, một đòn giết bảy con ruồi... Bảng thốn kê con số bảy được các dân tộc trên thế giới sử dụng trong cuộc sống khó có thể kể hết được...
Liên quan đến con số bảy còn có những di tích lớn và nổi tiếng nhất và kiến trúc và nghệ thuật cổ đại - đó là Bảy kỳ quan thế giới.
Văn bản đầu tiên nhắc đến Bảy kỳ quan thế giớ là của Antipater, nhà văn Phinic ở Xiđôn (thế kỷ thứ II trước công nguyên). Thật vậy, tác phẩm của ông không phải là một tập sách triết học, cũng không phải là một cuốn album, mà đó là một tập sách hướng dẫn du lịch thông thường, đại loại như một cuốn hướng dẫn tham quan các di tích cổ mà hiện nay ta thường thấy.
Bản đồ vị trí Bảy kỳ quan thế giới cổ đại
Có thể Antipater đã có những cuộc du hành thật sự, từ đó miêu tả Bảy kỳ quan thế giới, chứ không phải ông chỉ đơn thuần miêu tả theo lời những nhà du hành khác. Chủ yếu ông đã đi theo các con đường thương mại mà hồi ấy thế giới đã từng biết đến. Ở Hy Lạp, ông chỉ khám phá được một kỳ quan thế giới, đó là tượng thần Zeus ở Olympia. Ở Tiểu Á, ông đã miêu tả Đền Artemis ở Ephesus và Lăng mộ Mausolus ở Halicarnassus. Trên đảo Rhodes, ông đã khám phá ratượng thần Mặt trời mà người ta gọi là Côlôxơ Rôđôpxki. Ở châu Phi, ông đã phát hiện Ngọn hải đăng Alexandria vàKim tự tháp Kheops ở Giza, còn ở Viễn Á là vườn treo Babylon.
Nhưng những công trình nổi tiếng ở gần sát ngay nhà mình, thí dụ như pháo đài Aphini thì nhà văn Antipater lại không hề nhắc đến. Đáng lẽ cuốn sách của ông phải trở thành sách hướng dẫn cho những người Hy Lạp có hóa và thu hút họ đến pháo đài Aphini, thế mà ông đã không nghĩ ra.
Antipater chỉ miêu tả trong cuốn sách của mình những "kỳ quan" còn có thể thấy được. Do vậy, tháp Babylon, đương nhiên là một di tích kiến trúc cổ kiệt xuất, nhưng vào thời gian đó nó đã phá hoại và không còn là một danh lam thắng cảnh nữa. Và ông đã không muốn đề nghị người đương thời đến tham quan những đống đổ nát của di tích ấy. Những người Hy Lạp cổ đại đánh giá cao cái đẹp cho rằng những gì đã hoang tàn thì không còn đáng chú ý nữa.
Tháp Babylon (Babel) trong kinh thánh
Sự khâm phục đối với Bảy kỳ quan thế giới đã kéo dài không được bao lâu. Khi thế giới phương Tây công nhận Kitô giáo thì sự quan tâm đến thời cổ đại đã bị biến mất. Đến thời kỳ ấy, trừ kim tự tháp Kheops, các kỳ quan khác chỉ còn lại là những đống đổ nát và người đời đã quên lãng chúng.
Nếu không có những người Ả Rập thì ngày nay có lẽ chúng ta đã hoàn toàn không biết gì về các kỳ quan nghệ thuật. Các nhà bác học Ả Rập đã phát hiện được những bản thảo từ thời cổ đại và bắt đầu nghiên cứu chúng. Họ đã dịch các bản thảo ấy và nhờ vậy những thông tin về các công trình sáng tạo vĩ đại của quá khứ đã bắt đầu được biết đến vào thời trung kỷ và đến tận ngày nay,
Chỉ đến cuối thế kỷ XV, vào thời đại Phục hưng, ở châu Âu mới thức dậy sự quan tâm đối với thời cổ đại. Dựa vào các nguồn tư liệu cổ xưa, kiến trúc sư người Áo Phise Phôn Êrlac (1656-1723), trong cuốn "Phác thảo về lịch sử kiến trúc" đã mô tả Bảy kỳ quan thế giới, đưa chúng về với kho tàng kiến thức của người châu Âu. Những phải hai thế kỷ nữa trôi qua, các nhà bác học mới khai quật được các di tích của thế giới cổ đại và giới thiệu những thành tựu của tổ tiên chúng ta trước sự sửng sốt của con người thời đại mới.