THAY ĐỔI TRONG CÁCH DẠY VÀ HỌC TRONG THỜI ĐẠI SỐ
Ngày 07/10/2022, tại Hội trường Đại học Huế (03 Lê Lợi, Tp. Huế), GS.TS. Trương Nguyện Thành (Tiến sĩ Hóa tính toán tại Đại học Minnesota, Giáo sư Danh dự Đại học Utah, Nhà khoa học trẻ tài năng bình chọn bởi National Science Foundation (Mỹ); Nguyên Hiệu phó Trường Đại học Hoa Sen; Nguyên Hiệu phó Trường Đại học Văn Lang) đã có cuộc nói chuyện về chủ đề “Thay đổi cách dạy và học trong thời đại số”. Sự kiện do Viện Nghiên cứu phát triển Thừa Thiên Huế (HUEIDS) phối hợp cùng Khoa Quốc tế (HUIS) - Đại học Huế tổ chức. Nhiều giảng viên, sinh viên Đại học Huế cùng một số thầy cô giáo các trường phổ thông trung học trên địa bàn thành phố Huế đã đến giao lưu cùng giáo sư.
GS. Trương Nguyện Thành bày tỏ sự vui mừng khi được gặp gỡ và trò chuyện với giáo viên, sinh viên các trường Đại học và Trung học tại Tp. Huế về chủ đề “Thay đổi cách dạy và học trong thời đại số”. Đặt vấn đề về sự cần thiết của việc thay đổi cách dạy và học, ông chia sẻ với cử tọa ba câu chuyện mà bản thân trực tiếp trải nghiệm.
Những cú sốc làm thay đổi nhận thức về cách học
Câu chuyện thứ nhất về cú sốc của GS. Trương Nguyện Thành trong những ngày đầu làm quen với nền giáo dục trung học Mỹ. Ông kể: “Tôi học thuộc lòng khá nhiều khi còn ở Việt Nam. Ngay cả các bài tập Toán, Vật lý… cũng giải theo công thức có sẵn. Tôi còn rất tự hào với khả năng nhân chia tính toán bằng tay của mình. Qua Mỹ năm 19 tuổi, tôi được học năm cuối trung học. Lúc ấy, do vốn liếng tiếng Anh còn ít ỏi nên tôi chọn học lớp Vật Lý vì từ ngữ đơn giản, bài toán đơn giản, một số chỗ không biết thì có thể suy đoán được. Tất nhiên là tôi vẫn tiếp tục tính toán thủ công. Thấy vậy, thầy giáo đưa cho cái máy tính cầm tay bảo dùng nhưng tôi từ chối. Tôi nói: “Em không cần vì có thể tính toán bằng tay rất nhanh và không để thua kém bạn bè”. Thầy không nói gì. Một hôm, ông giao ba bài tập Vật lý, yêu cầu một bạn học kém nhất lớp dùng máy tính và học sinh Thành tính bằng tay để xem ai giải xong trước. Kết quả, bạn nộp bài lâu lắm rồi mà tôi vẫn còn loay hoay tính toán. Khi đó, thầy cầm máy tính tới nói: “Thành, vấn đề ở đây không phải em có thể nhân chia tính tay giỏi hơn ai. Tôi không cần biết em sử dụng công cụ gì và bằng cách nào, kể cả em mở sách lục tung đọc lại tất cả, tôi chỉ cần em giải bài tập nhanh nhất và chính xác nhất”. Về nhà, tôi nghĩ mãi không ra. Tại sao mình tính toán giỏi như thế mà lại thua bạn học kém nhất lớp. Thi cử thì phải cất sách vở, ai nhớ tốt hơn, nhiều hơn thì điểm cao, ai nhớ ít thì điểm thấp chứ. Đằng này thầy lại bắt dùng máy tính, cũng không cần biết làm cách gì, miễn cho đáp số chính xác. Tôi bị sốc cực mạnh bởi người thầy lẫn tư duy học hoàn toàn mới này”.
Câu chuyện thứ hai đề cập đến cách nhà trường tại Mỹ dạy học sinh làm việc nhóm ngay từ bậc tiểu học. Cụ thể, khi con trai út GS. Trương Nguyện Thành học lớp 5 được cô giáo giao một dự án, đồng thời chỉ định thêm bốn bạn khác lập thành nhóm học tập. Một hôm, bạn về nhà và phàn nàn với ba về việc cô giáo yêu cầu đúng ngày giờ đó phải nộp kết quả dự án nhưng lại không nói rõ về việc phải phân chia công việc cho các thành viên trong nhôm ra sao. Được ba gợi ý, sáng hôm sau bạn lên lớp hỏi cô thì tối về tiếp tục phàn nàn, rằng cô không những không giúp đỡ lại còn bảo chuyện phân chia công việc là chuyện của nhôm các em tự trao đổi và thống nhất với nhau. Cô chỉ cần biết đúng hạn nhóm phải nộp kết quả, và tất cả đều có cùng một điểm số. Thế là bạn ấy chia đều công việc cho mỗi thành viên và bạn chịu trách nhiệm tổng hợp. Tuy nhiên có bạn trong đội không làm tốt công việc của minh nên dự án đầu tiên này bị chấm điểm thấp. Bạn vô cùng hậm hực, cho rằng hệ thống giáo dục không công bằng, không muốn ở trong nhóm nữa nhưng cô giáo lại yêu cầu làm tiếp dự án khác với nhóm. Việc này khiến cậu bé 10 tuổi không tài hiểu nổi. Tại sao cả nhóm phải có chung điểm? Tại sao mình không được quyền tự tìm người phù hợp để lập nhóm? GS. Trương Nguyện Thành khuyên con trai, thay vì yêu cầu mỗi người đều phải đảm nhận một việc công bằng như nhau thì nên tận dụng thế mạnh của từng bạn. Ví dụ, trong nhóm có cô bạn thích giao tiếp, giỏi tương tác thì giao cho cô ấy chuyện kết nối mọi người, trình bày, liên hệ, thuyết phục, còn bạn giỏi kỹ thuật chỉ cần làm kỹ thuật thôi. Như vậy mọi người sẽ vui hơn. Sau khi hiểu cách làm việc đội nhóm, cậu bé đã triển khai dự án thứ hai rất vui vẻ, thành công.
GS. Trương Nguyện Thành cho hay: “Những chuyện này khác với những gì chúng ta đang làm nhưng có lý do và triết lý của nó. Sau 30 năm giảng dạy tại Đại học Utah và năm nào cũng có sinh viên Việt Nam sang du học, tôi có thể đưa ra nhận định rằng, sinh viên Việt Nam cực giỏi khi làm việc cá nhân nhưng lại chưa ổn khi làm việc nhóm. Mỗi khi đưa vào làm việc nhóm là y như rằng các bạn ấy sẽ đề xuất “Thầy ơi cho em làm một mình đi. Em làm còn giỏi hơn ba bạn kia nên em không cần ba bạn ấy”. Lý do, sinh viên Việt Nam muốn thể hiện cá tính, bản lĩnh của mình mà nếu trở thành thành viên của đội nhóm, phải va chạm nhiều đồng nghiệp nhiều tính cách, rồi sự thành hay bại của dự án là kết quả của toàn nhóm mà không của riêng một ai. Nếu đội là nhóm A thì mình là thành viên nhóm A chứ không được là ông A, mình chẳng là ai cả. Tiếc là, khi đi làm chúng ta luôn phải làm việc nhóm. Lúc ta vào công ty nào đó, hay tham gia một dự án nào đó thì họ đã ở đó. Chúng ta không có quyền lựa chọn sếp và đồng nghiệp.
Câu chuyện cuối cùng, GS. Trương Nguyện Thành cho biết, ông thường tổ chức thi cuối khóa bằng cách cung cấp đề thi có sẵn công thức và được mở sách tham khảo, sinh viên chỉ cần tắt điện thoại nhằm tránh làm phiền bạn bè cũng như liên hệ với bên ngoài.
Ngày nay, trách nhiệm nhớ dữ liệu không còn thuộc về con người nữa
Câu chuyện đi thi được sử dụng tài liệu, trong sự công bằng về kiến thức thì “ai biết cách xử lý thông tin trong não mình” hơn là nhớ nhiều giỏi nhiều, nhớ ít điểm thấp.
Tôi có thể nói với bạn rằng, ngày nay, trách nhiệm nhớ dữ liệu không còn thuộc về con người nữa. Vì ta không có khả năng nhớ được hàng tỷ dữ liệu. Ta cũng không thể truy xuất dữ liệu nhanh, phong phú như công cụ Google. Khi cần tìm hiểu gì đó, mọi người sẽ bật Google lên. Vậy tại sao ta lại ép học sinh, sinh viên của mình phải nhớ để làm gì? Trong tương lai, trách nhiệm nhớ thông tin, phối hợp thông tin có khả năng không chỉ nằm trong não người nữa. Ví dụ, cô người máy Sophia hiện có một bộ nhớ và khả năng xử lý thông tin không thua kém con người. Cô có thể trao đổi bất kỳ lĩnh vực nào bạn muốn từ chính trị, triết học, nghệ thuật… một cách thông minh, sắc sảo. Người máy Sophia thông minh vì dữ liệu của cô nhiều hơn con người, và cô đã học được cách xử lý thông tin thông qua máy học, trí tuệ nhân tạo.
Trí tuệ nhân tạo (AI) phát triển trên cơ sở bắt chước cách hoạt động và học tập của não người. Ở cấp độ thứ nhất, AI học cách phân loại như đứa trẻ 3 - 4 tuổi. Cấp độ thứ hai, AI bắt đầu thí nghiệm theo cách “thử rồi học” như đứa trẻ 5 - 6 tuổi… Trong tương lai, với bộ nhớ khổng lồ và tốc độ tính toán lượng tử, AI sẽ đưa ra quyết định nhanh hơn não người. Con người đang thực sự chế tạo ra các thiết bị máy móc để thay đổi công việc của mình, hay nói cách khác là “xóa công việc của con người”. Vậy rồi con người có thể làm gì?
Tương lai gần, khi con em chúng ta tốt nghiệp đại học thì xe hơi đã tự lái, về nhà muốn ăn gì chỉ cần nói và sau một giờ là đã có thức ăn nóng sốt để dùng. Tôi chia sẻ những câu chuyện này là để chúng ta cùng suy nghĩ xem cách mình đang dạy - đang học có còn hợp lý cho những gì sắp sửa xảy ra không? Chúng ta đã chuẩn bị cho con em mình những gì cho tương lai của họ?
Đại dịch Covid-19 đã ép loài người đi thẳng đến Cách mạng Công nghiệp 4.0
GS. Trương Nguyện Thành nhớ lại: “Tôi ở Việt Nam liên tục từ cuối năm 2020 đến cuối 2021 vì đại dịch Covid-19. Do đó, tôi đã chứng kiến tất cả những khó khăn của ngành giáo dục đào tạo Việt Nam khi phải đóng cửa toàn bộ trường học, cơ sở giáo dục để cách ly cộng đồng. Trong khi đó, tại căn hộ của mình ở Tp. Hồ Chí Minh, 2h sáng mỗi ngày trong tuần tôi thức dậy và giảng dạy cho gần 500 sinh viên ở Mỹ dễ dàng, thuận tiện. Tại sao tôi không gặp những khó khăn tương tự?
Trước khi xảy ra đại dịch Covid-19, những người tổ chức đào tạo thường nghĩ việc học tập trực tiếp rất ổn thỏa, dạy trực tuyến là thừa. Trong khi đó, các trường đại học tại Mỹ và những nước tiên tiến khác hiểu rằng hệ thống dạy trực tuyến và quản lý lớp học là một công cụ hỗ trợ giảng viên đào tạo tốt hơn nữa chứ không phải công cụ thay thế. Tuy dạy trực tiếp vẫn được ưu tiên nhưng khi cần thiết thì giảng viên có thể linh hoạt dạy trực tuyến. Chính xác là, dù chúng ta có chuẩn bị hay không thì Covid-19 cũng đã ép chúng ta đi vào con đường Cách mạng Công nghiệp 4.0 mà không có bất kỳ lựa chọn nào khác. Các hệ thống giáo dục toàn cầu đều phải làm như vậy, còn làm hiệu quả hay không là việc của mỗi cơ sở đào tạo. Trong tương lai, đại học không còn những giảng đường lớn với quy mô 500 – 1000 sinh viên cho các môn lý thuyết mà sẽ bị thay thế bởi các lớp trực tuyến. Sinh viên sẽ học các lớp này ở những thời điểm thích hợp. Còn sinh viên đến trường chỉ để thực tập thí nghiệm, làm việc nhôm, sinh hoạt, v.v
Cũng trong thời gian Covid-19, qua đứa con trai út đang học cao học tại Đại học Stanford tôi biết được trường đã bắt buộc tất cả các giáo sư đang cùng giảng dạy một môn học đưa toàn bộ bài giảng riêng của họ lên hệ thống đào tạo trực tuyến. Như vậy, sinh viên của giáo sư A có thể đồng thời vừa tiếp cận được tư liệu giảng dạy của giáo sư A lẫn của các giáo sư khác ngay trên hệ thống. Không còn chuyện bài giảng của tôi thì tôi cất giấu nữa. Sinh viên sẽ vào xem tất cả video bài giảng của tôi lẫn các giáo sư dạy môn đó. Từ đó nảy sinh tình trạng sinh viên sẽ vào xem video của thầy cô nào họ thích, chứ chưa chắc sinh viên xem hay thèm dự các buổi dạy online của giảng viên phụ trách chỉ vì video giảng dạy của thầy cô kia xem hay hơn. Và số lượt xem đều biểu hiện công khai, minh bạch trên hệ thống. Thật là “chết dở” khi tôi dạy lớp 100 sinh viên và 100 sinh viên này không thèm xem video của tôi, không thèm vào lớp online của tôi mà vào lớp của thầy cô khác để học. Điều này nói gì về khả năng giảng dạy của tôi với sếp tôi?!
Cho nên, giáo dục trực tuyến chỉ là công cụ để nâng cao chất lượng đào tạo chứ không thay thế chuyện lên lớp. Và người học là trọng tâm. Họ không cần biết học ai miễn sao học được những gì cần phải biết của môn đó tốt nhất có thể.
Con trai tôi đã biết đến điều này từ lâu khi còn học lớp 9. Trong buổi họp phụ huynh, thầy giáo dạy Toán phàn nàn với tôi rằng trong giờ học cậu ta không thèm nghe thầy giảng bài. Tôi về hỏi con lý do, cậu ta bảo do thầy dạy dở quá, con không hiểu nên con lên Youtube gõ từ khóa con cần là hệ thống trả về cho con cả trăm ngàn video. Con tìm clip nào có lượt xem nhiều, có đánh giá cao thì mở lên nghe vài lần là hiểu bài nên khi lên lớp con không cần nghe thầy giảng nữa.
Đây rõ ràng là cách học mới. Hoạt động dạy và học giống nhau trên một vài khía cạnh vì cách dịch chuyển của luồng thông tin. Người học bây giờ có quá nhiều thông tin cũng như cách để tiếp cận và lựa chọn. Tương tự như việc phụ huynh thời nay hay phàn nàn con em chúng ta ít đọc sách. Tôi thì nhìn vấn đề tích cực hơn một chút. Sách là công cụ thông tin. Trước đây chúng ta chỉ có mỗi sách, còn con em chúng ta bây giờ có vô số công cụ như Google, Youtube, Facebook, hàng tá hệ thống hỗ trợ, sách online, video online, bài tập online… nên không có đủ thời gian cho tất cả. Các em chỉ có thể tiếp cận thông tin nào hữu ích và dễ hiểu mà thôi. Nên chúng ta cần hiểu cho thế hệ mới và cần suy nghĩ lại, điều mình muốn ở con em là cái gì? Đọc sách? Nhớ công thức? Hay thuộc lòng cách giải bài toán mẫu, phương pháp mẫu?
GS. Trương Nguyện Thành cho hay: “Chúng ta thích những thứ quen thuộc, ví dụ như chỉ ngủ ở mé giường bên phải hàng chục năm. Người thầy cũng quen thuộc với cách dạy của mình và không thích thay đổi. Đó là vấn đề tâm lý. Giáo án của tôi năm năm nay dạy quen rồi, bảo tôi xóa làm cái mới?! Hoặc là trường học Việt Nam còn dạy lập trình bằng ngôn ngữ Pascal, trong khi ngôn ngữ này đã “chết” hơn 30 năm, chỉ vì hồi xưa tôi học vậy, có giáo trình vậy, dạy quen tay.
Nếu chúng ta không thay đổi, chuyện gì sẽ xảy ra?
Chẳng có gì xảy ra cả. Chỉ có con em chúng ta lãnh đủ thôi!
Nhiều sinh viên tôi gặp nói rằng họ đã phí bốn năm đại học vì khi ra trường những kiến thức đã học chẳng dính líu gì mấy với công việc. Vậy chúng ta đang làm gì ở đại học? Chúng ta đã chuẩn bị cho các em đối diện với thực tế xã hội hôm nay và tương lai chưa? Tôi chỉ nêu một số vấn đề chứ không nêu giải pháp vì đây là việc mà chúng ta phải cùng trăn trở. Trong tương lai con người sẽ sống với những robot siêu thông minh. Và vì con người chế tạo ra robot nên biết giới hạn của nó. Robot chỉ giải quyết được những vấn đề có biên độ, giới hạn rõ ràng. Nhưng rất nhiều vấn đề vốn không có giới hạn và biên bộ rõ ràng, hoặc có quá nhiều phương án, khó đo lường để nhanh chóng đưa ra giải pháp tối ưu. Hiện tại, nếu cho một robot nghe tất cả các loại nhạc, nó có thể phối lại bài nhạc mới ngẫu nhiên từ những trí tuệ và thói quen của các dòng nhạc mà nó học được. Hoặc cho robot xem một loạt tác phẩm hội họa thuộc một thể loại nào đó, robot sẽ phối lại một bức tranh mới theo thể loại đó. Như vậy, khả năng sáng tạo của robot là có trên một khía cạnh cụ thể nào đó.
Vậy liệu có phải trong tương lai họa sĩ, nhạc sĩ sẽ thất nghiệp?!
Tôi đã trăn trở về điều này nhiều năm và luôn suy nghĩ để thay đổi cách dạy của mình hàng năm. Khi bắt đầu một lớp học mới, tôi thay đổi một vài điểm trong cách giảng dạy, thi cử và cuối kỳ đánh giá xem có kết quả tích cực nào không. Trước kia mỗi khi thi cuối kỳ, tôi cho các bạn sinh viên mang theo 3 trang giấy công thức vào phòng. Vừa rồi, tôi tiến hành cho 500 sinh viên thi trực tuyến trên máy tính lẫn trực tiếp cùng lúc tại hội trường. Tôi và năm bạn phụ giảng quản lý, quan sát đảm bảo sự công bằng. Một sinh viên đang điều trị trong bệnh viện cũng mở camera để làm bài thi trực tuyến ngay trên giường bệnh. Hết 2 giờ làm bài, hệ thống tự động ngắt và 500 sinh viên biết điểm ngay lập tức. Kết quả thi vẫn rất tốt, phân bổ điểm tốt.
Một điều thú vị khác, tôi tìm xem sinh viên thường bị lỗi phần nào, sai chỗ nào. Điều quan trọng khi tôi sai là “tại sao tôi sai”. Vì ngay thời điểm quyết định chọn một đáp án, não của chúng ta nghĩ rằng đáp án này đung. Nhưng tôi có thể phân tích bạn sai vì lý do gì. Việc đặt câu hỏi trên hệ thống hỗ trợ giảng dạy cho sinh viên tôi vẫn thường làm khi giảng bài. Nhờ vậy, tôi càng hiểu rõ ra rằng công nghệ là công cụ hỗ trợ cho chúng ta giảng dạy hiệu quả hơn và không bao giờ thay thế được mối quan hệ giữa thầy cô với học trò. Vậy nên trong tương lai, vì học trò đã có đủ nguồn thông tin để tham khảo nên thầy cô chỉ là người hỗ trợ, gợi ý mà thôi. Tầm quan trọng của việc thầy cô đứng lớp giảng dạy giảm đi và tầm quan trọng của việc thầy cô trở thành người tư vấn tăng lên.
Người học cũng không còn đọc một cuốn sách từ đầu tới cuối nữa. Thế hệ tiếp theo, sinh viên sẽ học theo từng phân đoạn, từng chủ đề, như cách ghép lego. Sau khi học theo từng block, từng module, sinh viên cần kết nối chúng với nhau và lúc này vai trò của thầy cô chính là hướng dẫn để các em biết cách kết nối kiến thức này với kiến thức kia để giải quyết vấn đề thực tế. Chuyện của thầy cô chỉ là làm sao đảm bảo được module này có những mấu chốt tiêu biểu để sinh viên học được cách kết nối giữa các module, hoặc lấy kiến thức từ module này áp dụng vào các khía cạnh khác. Sinh viên nước ngoài đã bắt đầu làm như vậy.
Một số doanh nghiệp cũng bắt đầu có khuynh hướng sử dụng nhân sự thành thạo một số kỹ năng nhất định. Ví dụ, gần đây Google tập trung tuyển dụng nhân sự có kỹ năng cụ thể nào đó và trả lương tương đương kỹ sư. Điều này có nghĩa, tương lai giáo dục sẽ tập trung vào cá nhân hóa đào tạo và không có ngành nghề nào là cố định.
Ví dụ, sinh viên A thích ứng dụng công nghệ trong loại hình nghệ thuật nào đó, bạn đi học một số chứng chỉ của ngành nghệ thuật bạn thích, một số chứng chỉ công nghệ thông tin (AI, viết phần mềm…). Sau đó tự thiết kế giải pháp cho riêng mình. Hoặc, sinh viên B muốn trở thành nhân sự quản lý bệnh viện, phòng khám sẽ đi học các chứng chỉ về ngành Tâm lý học, Quản trị Kinh doanh và sau đó ứng tuyển vào công việc quản lý bệnh viên hoặc làm việc trong mảng sức khỏe cộng đồng. Những sinh viên học theo hướng này khi đi làm lương cao hơn hẳn những bạn chỉ có bằng Tâm lý học hoặc bằng Quản trị kinh doanh.
Nhu cầu tương lai có thể là như vậy. Và nó sẽ làm tăng áp lực lên hệ thống giáo dục. Các nước tiên tiến dự đoán được điều đó nên bắt đầu thí nghiệm cho sinh viên tự thiết kế môn học. Một sinh viên chỉ cần bỏ ra 4 năm là học được tất cả những điều họ cần.
Có thể ở thời điểm hiện tại, những chuyện này có vẻ xa vời với Việt Nam nhưng tương lai thế giới đang đẩy về đó thì Việt Nam có đi sau một chút cũng buộc phải đi theo hướng đó. Như chuyện dạy trực tuyến, dù có từ chối thì bây giờ cũng phải làm. Và thường thì những trường đại học có quy mô vừa phải dễ uyển chuyển để thí nghiệm.
Những câu chuyện tôi vừa chia sẻ có vẻ ngược với thói quen chung nhưng nó khiến chúng ta phải trăn trở, suy nghĩ. Và tôi hy vọng những trăn trở này sẽ giúp các thầy cô hướng tới, chuẩn bị cho mình các thí nghiệm nho nhỏ trong cách dạy và tương tác với học sinh, sinh viên ở hiện tại, cũng như cách mình hướng dẫn sinh viên học trong tương lai.
Diễm Châu
Cảm ơn bạn Diễm Châu đã tham dự và ghi lại nội dung buổi chia sẻ .