ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn sau phẫu thuật luôn là vấn đề lớn trong lĩnh vực ngoại khoa, gây tốn kém rất nhiều tiền của, kéo dài thời gian điều trị và nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân. Để hạn chế nhiễm trùng sau phẫu thuật cần thực hiện tốt nguyên tắc vô khuẩn trong ngoại khoa và cách dùng kháng sinh đúng[4],[7].
Kháng sinh dự phòng (KSDP) được dùng với mục đích phòng nhiễm khuẩn cơ hội xảy ra trong phẫu thuật mà không có trước phẫu thuật, giảm nguy cơ đề kháng kháng sinh và hơn thế nữa giảm chi phí điều trị cho người bệnh. KSDP được sử dụng ngay trước, trong và có thể sau phẫu thuật nhưng với thời gian ngắn, sẽ tạo được nồng độ kháng sinh đủ cao cần thiết tại vùng mô của cơ thể hoặc vết thương nơi phẫu thuật sẽ được tiến hành. Nồng độ kháng sinh cao là cần thiết để bảo vệ chống lại các vi khuẩn có thể sinh sản tại vùng giải phẫu tương ứng[2],[9].
Ở các nước phát triển, KSDP được sử dụng rộng rãi hơn 40 năm nay[14],[49], đem lại lợi ích đáng kể về kinh tế, công sức điều dưỡng cũng như giảm sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn so với cách sử dụng kháng sinh kéo dài sau phẫu thuật.
Ở Việt Nam, KSDP trong ngoại khoa cũng đã đề cập tới và đã áp dụng ở một số bệnh viện lớn tại Hà Nội, Hồ Chí Minh, Huế[1],[2],[5].
Tại Bệnh viện Đà Nẵng, với chủ trương áp dụng KSDP cho các trường hợp phẫu thuật và quy trình vô khuẩn tại phòng mổ. Nhưng cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về vấn đề này. Do vậy chúng tôi thực hiện đề tài “Sử dụng kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật đóng đinh xương chày kín không mở ổ gãy tại Bệnh viện Đà Nẵng” nhằm mục đích:
1. Đánh giá quy trình vổ khuẩn trong phẫu thuật đóng đinh xương chày kín không mở ổ gãy tại Bệnh viện Đà Nẵng.
2. Đánh giá hiệu quả của kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật đóng đinh xương chày kín không mở ổ gãy.
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Lịch sử phát triển của kháng sinh dự phòng
Năm 1961 Burke là người có công đầu tiên trong lĩnh vực KSDP. Ông nghiên cứu trên súc vật và chứng minh bằng thực nghiệm rằng cần thiết dùng kháng sinh (KS) trước khi bắt đầu phẫu thuật để hạn chế nhiễm trùng sau phẫu thuật. Trong những năm của thập niên 60, nhiều nghiên cứu chỉ ra lợi ích phòng nhiễm trùng sau phẫu thuật của KSDP và đưa ra sự thống nhất về chỉ định và cách dùng KSDP[2],[12]. Các chỉ định và cách dùng này cũng chuyển biến theo sự phẫu thuật của kỹ thuật ngoại khoa và sự phát hiện ra các KS mới[12].
Tháng 12 năm 1992 Hội nghị liên ngành trong y khoa, do Hội Gây mê – Hồi sức Pháp chủ trì, tổ chức tại Trường Đại học Y khoa Xavier Bichat – Paris, về chủ đề KSDP. Từ đó vấn đề sử dụng KSDP (chỉ định, nguyên tác chọn KS và cách dùng…) mang tính thống không những tại Pháp mà còn ảnh hưởng trên toàn thế giới[11].
1.2. Đại cương và phân loại nhiễm trùng sau phẫu thuật
Theo trung tâm kiểm tra bệnh tật Hoa Kỳ (CDC)[8], nhiễm trùng sau phẫu thuật được chia thành nhiễm trùng ở cách vùng phẫu thuật và nhiễm trùng tại vùng phẫu thuật:
1.2.1. Nhiễm trùng cách vùng phẫu thuật
Chủ yếu là những nhiễm trùng tiết niệu, nhiễm trùng hô hấp, nhiễm trùng mô mềm xa vùng phẫu thuật…
1.2.2. Nhiễm trùng tại vùng phẫu thuật
Là tất cả nhiễm trùng từ chổ rạch da đến vùng giải phẫu được phẫu thuật, gồm:
- Nhiễm trùng vết mổ:
+ Nhiễm trùng vết mổ nông: da và mô dưới da
+ Nhiễm trùng vết mổ sâu: cân và cơ
- Nhiễm trùng ở khoang và các cơ quan: là các nhiễm trùng liên quan tới các cơ quan và các khoang được phẫu thuật hay chạm tới lúc phẫu thuật.
1.3. Nguyên nhân nhiễm trùng sau phẫu thuật
1.3.1. Yếu tố vi khuẩn
Đó là số lượng và độc tính của vi khuẩn. Nhiễm trùng chỉ có thể xuất hiện khi có sự hiện diện của vi khuẩn[2],[4]. Số lượng và độc tính của từng loại vi khuẩn góp phần vào sự thành lập nhiễm trùng rầm rộ hay không.
Về vi khuẩn cộng sinh: các nghiên cứu vùng phẫu thuật vào thời điểm đóng vết mổ cho thấy một hoặc nhiều loại vi khuẩn có thể phân lập từ hầu hết các vết mổ. Vết mổ được phân loại sạch thường chỉ có vi khuẩn da: Staphylococcus epidermiques hoặc Diphtéroides. Khi nội tạng bị sâm nhập vi khuẩn cộng sinh tự nhiên hoặc bị xáo trộn sẽ thành tác nhân gây bệnh, vì khi có sự hiện diện của một mô bị thương tổn hay vật thể ngoại lai thì một lượng vi khuẩn ít cũng đủ gây nhiễm trùng[9].
1.3.2. Yếu tố tại chỗ
Trong thực hành, sự ức chế cơ chế bảo vệ tại chỗ chống vi khuẩn là nguyên nhân quan trọng nhất gây nhiễm trùng vùng phẫu thuật. Sự sử dụng các vật thể ngoại lai như chỉ khâu, ống dẫn lưu, sự gắn kết thiếu chính xác của hai mép mô, sự thắt nghẹt mô do nút chỉ khâu quá chặt, sự hiện diện bất kỳ mổ chết hay khối máu tụ, khối thanh dịch, sự sang chấn trong phẫu thuật…đều làm tăng nguy cơ nhiễm trùng. Do ảnh hưởng đến khả năng đại thực bào tiếp xúc trực tiếp và diệt vi khuẩn[4],[7].
1.3.3. Yếu tố toàn thân
Suy yếu sức đề kháng: quá già, quá trẻ, dùng liệu pháp corticoide, mắc bệnh ảnh hưởng toàn thân nặng[9].
Sự giảm tưới máu vết mổ: tình trạng tắc mạch, sốc giảm thể tích, sử dụng các thuốc điều trị làm hạ huyết áp, sử dụng thuốc co mạch tại chỗ, toàn thân[12].
Suy giảm áp lực oxy tại tổ chức[9],[11].
1.4. Đánh giá nguy cơ nhiễm trùng theo thang điểm NNIS
(hệ thống giám sát quốc gia các nhiễm trùng bệnh viện)
Thang điểm này tính đến 3 yếu tố: yếu tố vấy nhiễm vi khuẩn (xếp loại phẫu thuật theo Altemeier), yếu tố toàn thân (xếp loại phẫu thuật theo ASA) và thời gian phẫu thuật (ngưỡng thời gian của từng loại phẫu thuật)[1],[12].
* Phân loại các phẫu thuật theo Altemeier [1],[12]
Năm 1955 Altemeier phân loại các phẫu thuật theo nguy cơ nhiễm khuẩn trong mổ và sau mổ, các loại phẫu thuật được chia làm 4 loại:
Loại I: Phẫu thuật sạch: bao gồm các phẫu thuật da còn nguyên vẹn, không viêm, không sang chấn, không liên quan đến miệng hầu, ống tiêu hoá, hệ thống hô hấp, hệ niệu sinh dục, không có lỗi về vô khuẩn, khâu vết mổ ngay và không dẫn lưu (nếu có dẫn lưu thì dẫn lưu kín).
Loại II: Phẫu thuật sạch - nhiễm: bao gồm các phẫu thuật da còn nguyên vẹn có liên quan đến ống tiêu hoá, hệ hô hấp, tiết niệu nhưng chưa có nhiễm khuẩn.
Loại III: Phẫu thuật bị nhiễm: bao gồm vết thương mới do chấn thương không nhiễm bẩn; phẫu thuật liên quan đến tiết niệu, đường mật, tiêu hoá có nhiễm khuẩn.
Loại IV: Phẫu thuật bẩn: bao gồm các vết thương do chấn thương trên 4 giờ; thủng tạng rỗng; vết thương có dị vật, mô hoại tử.
* Phân lạo phẫu thuật theo hội gây mê hoa kỳ thang điểm ASA[1],[12]
Loại I: Tình trạng sức khỏe bệnh nhân bình thưòng
Loại II: Bệnh nhân có tình trạng bệnh toàn thân nhẹ. Như viêm phế quản mạn, béo phì vừa, đái đường kiểm soát được bằng chế độ ăn, tăng huyết áp vừa, suy tim nhẹ
Loại III: Tình trạng bệnh toàn thân nặng nhưng chưa tàn phế. Như suy mạch vành với đau thắt ngực, đái đường phụ thuộc insulin, suy hô hấp vừa, suy tim vừa.
Loại IV: Bệnh lý toàn thân nặng, không còn đáp ứng điều trị và đe dọa tử vong. Như loạn nhịp không đáp ứng điều trị, suy hô hấp, suy thận, suy gan, suy tim nặng.
Loại V: Bệnh nhân ở tình trạng hấp hối, đe dọa tử vong trong vòng 24 giờ dù có phẫu thuật hay không. Như vỡ phình động mạch chủ bụng trong tình trạng choáng nặng.
* Ngưỡng thời gian của từng loại phẫu thuật
Bảng 1.1. Ngưỡng thời gian của từng loại phẫu thuật theo NNIS[12]
Loại phẫu thuật
Số bệnh nhân nghiên cứu
Ngưỡng thời gian (giờ)
Phẫu thuật tim hở
1042
5
Phẫu thuật cắt ruột thừa
4982
1
Phẫu thuật cắt cụt chi
1292
1
Phẫu thuật gãy xương hở
4419
2
Phẫu thuật thay khớp nhân tạo
5696
3
Phẫu thuật cột sống
5657
3
Thời gian phẫu thuật lớn hơn ngưỡng thời gian riêng cho từng loại phẫu thuật thì đó là yếu tố nguy cơ nhiễm trùng sau phẫu thuật của loại phẫu thuật đó[52].
* Cách tính thang điểm NNIS
- Xếp theo loại phẫu thuật Altemeier: loại I và II: 0 điểm, loại III và IV: 1 điểm.
- Xếp theo loại phẫu thuật ASA: loại I và II: 0 điểm, loại III, IV và V: 1 điểm.
- Thời gian phẫu thuật: nhỏ hoặc bằng thời gian ngưỡng: 0 điểm, lớn hơn thời gian ngưỡng: 1 điểm (đối với phẫu thuật kết hợp xương cẳng chân chúng tôi lấy ngưỡng thời gian phẫu thuật là 1 giờ)
Tính thang điểm NNIS là cộng điểm số của 3 yếu tố trên và thang điểm NNIS sẽ có 4 mức điểm là 0, 1, 2, 3. Ứng với từng mức điểm sẽ có tỷ lệ nhiễm trùng sau phẫu thuật riêng.
Bảng 1.2. Nguy cơ nhiễm trùng sau phẫu thuật theo thang điểm NNIS[8]
Thang điểm NNIS
Nguy cơ nhiễm trùng vết mổ (%)
0
1,5
1
2,6
2
6,8
3
13,0
1.4. Kháng sinh dự phòng
1.4.1. Định nghĩa
Phòng nhiễm khuẩn thuộc về phẫu thuật, không dự phòng sự xuất hiện của các nhiễm trùng khác như: nhiễm trùng tiết niệu, nhiễm trùng hô hấp…[11]
Dùng kháng sinh với mục đích phòng nhiễm khuẩn cơ hội xảy ra trong phẫu thuật mà không có trước lúc phẫu thuật[1],[12].
KSDP được sử dụng ngay trước, trong và có thể sau phẫu thuật nhưng với thời gian ngắn[6],[11].
1.4.2. Chỉ định dùng kháng sinh dự phòng
Căn cứ vào phân loại phẫu thuật theo Altemeier
- Loại I (phẫu thuật sạch): Không nhất thiết phải dùng kháng sinh, nếu thời gian phẫu thuật ngắn, được tiến hành trong điều kiện vô khuẩn nghiêm ngặt, ít gây nguy cơ cho người bệnh trong thời kỳ hậu phẫu[1],[11].
Tuy nhiên các điều kiện này không phải lúc nào cũng thực hiện được và trong một số trường hợp nếu xảy ra nhiễm trùng thì rất nặng nề, ảnh hưởng đến chức năng và tính mạng như phẫu thuật tim, vật liệu thay thế trong tim mạch, thay khớp, kết hợp xương… cho nên các trường hợp phẫu thuật loại I này vẫn có chỉ định dùng kháng sinh dự phòng[1],[11].
Một số trường hợp phẫu thuật loại I khác, dùng KSDP hay hoàn toàn không dùng kháng sinh còn chưa thống nhất[1],[10].
- Loại II là loại có chỉ định dùng kháng sinh dự phòng[1],[6].
- Loại III, IV: sự nhiễm trùng đã rõ, kháng sinh được dùng theo liệu pháp điều trị (dùng nhiều ngày) [1],[6].
* Sử dụng KSDP cần phải theo dõi diễn biến lâm sàng của người bệnh, nếu có biểu hiện nhiễm khuẩn cần chuyển ngay sang kháng sinh điều trị[2].
1.4.3. Nguyên tắc chọn kháng sinh dự phòng
Chọn kháng sinh thích hợp với vi khuẩn gây bệnh dựa trên tần xuất các vi khuẩn thường gặp đối với từng loại phẫu thuật điều trị và các dạng nhạy cảm của chúng. Loại kháng sinh được dùng cần có nồng độ đủ mạnh và đủ dài ở mô trong quá trình phẫu thuật, và không gây độc hại cho cơ thể (dị ứng, suy thận...). Sau cùng cần chọn kháng sinh không quá gây tốn kém, không tương tác với thuốc gây mê[11],[12].
Chọn đường đưa vào cơ thể cho thích hợp để duy trì nồng độ cần thiết lúc phẫu thuật. Đường tĩnh mạch là đường thông dụng nhất. Tuy nhiên có thể dùng tiêm bắp, nhưng tác dụng chậm. Đường uống được sử dụng trong việc diệt các vi khuẩn ái khí và kỵ khí trong phẫu thuật đại trực tràng trong phạm vi 48 - 24 giờ[2],[11].
Thời điểm dùng kháng sinh dự phòng rất quan trọng. Thông thường tiêm kháng sinh tĩnh mạch vào lúc khởi mê (trước rạch da 30 phút), nếu tiêm bắp thì cần tiêm trước khởi mê 1 - 2 giờ[1],[7].
Thời gian dùng kháng sinh dự phòng không nên quá 24 giờ, nhất là khi dùng các kháng sinh mạnh, để tránh tạo ra các vi khuẩn kháng kháng sinh. Việc dùng kháng sinh dự phòng kéo dài trong nhiều ngày không đem lại tác dụng tốt hơn khi dùng trong 24 giờ[5],[12].
* Lựa chọn kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật chấn thương chỉnh hình[1],[5]
Phẫu thuật chấn thương chỉnh hình được xếp là phẫu thuật sạch. Các loại vi khuẩn gây nhiễm trùng sau phẫu thuật thường là Staphylococcus aureus, Staphylococcus epidermidis, Streptococcus, Pseudomonas, E. coli.
Kháng sinh dự phòng được khuyến cáo là Cephalosporin thế hệ 1, Cephalosporin thế hệ 2.
Tiêm tĩnh mạch 2 lọ, 30 phút đến 1giờ trước khi rạch da. Với bệnh nhân trên 80kg dùng liều gấp đôi. Nếu thời gian mổ kéo dài quá thời gian bán thải của thuốc (3 giờ đối Cefuroxim, 6 giờ đối với Vincomycin), hoặc mất máu có chỉ định truyền máu thì tiêm, truyền nhắc lại với liều lượng như trên.
Nếu có sử dụng garo: phải tiêm hoặc truyền kháng sinh xong 10 phút trước khi garo. Có thể tiêm nhắc lại liều thứ 2, thứ 3 cứ mỗi 6 giờ trong vòng 24 giờ đầu.
Lưu ý: Trong quá trình sử dụng kháng sinh dự phòng, cần phải theo dõi sát tình trạng bệnh nhân và tình trạng ổ mổ. Nếu thấy biểu hiện nhiễm khuẩn, cần chuyển sang kháng sinh điều trị ngay.
1.4.4. Những lợi ích của việc sử dụng kháng sinh dự phòng[2]
- Giảm thiểu tỷ lệ nhiễm khuẩn
- Giảm thời gian nằm viện
- Giảm chi phí cho bệnh nhân và Bệnh viện.
- Thuận lợi cho bác sỹ trong kê đơn thuốc
- Giảm thiểu công việc điều trị cho đội ngũ điều dưỡng
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu kháng sinh dự phòng
* Tiêu chuẩn chọn bệnh:
- Các bệnh nhân bị gãy kín 2 xương cẳng chân, không có các vết thương kèm theo điều trị tại khoa ngoại Chấn thương từ tháng 3/2018 đến tháng 9/2016.
- Được lên chương trình mổ phiên, mổ yêu cầu tại khu mổ chương trình.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
- Bệnh nhân suy giảm miễn dịch
- Đang sử dụng kháng sinh vì bệnh lý khác
- Dị ứng với kháng sinh nghiên cứu.
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu quy trình vô khuẩn
- Bệnh nhân: gồm 30 bệnh nhân chọn ngẫu nhiên trong số các bệnh nhân nghiên cứu sử dụng KSDP, được cấy khuẩn.
- Tay kíp phẫu thuật (Phẫu thuật viên, dụng cụ viên phụ mổ) sau khi rữa tay: gồm 30 trường hợp.
- Không khí phòng phẫu thuật: gồm 12 lần cấy lúc đang phẫu thuật.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc, không đối chứng.
2.2.2. Chuẩn bị bệnh nhân trước phẫu thuật
Hoàn tất các xét nghiệm cơ bản, khám loại trừ các ổ viêm nhiễm như tai mũi họng, răng hàm mặt, da, cũng như mọi cơ quan khác.
* Chuẩn bị da trước phẫu thuật (theo quy trình chuẩn bị da cho bệnh nhân trước phẫu thuật chương trình của Bệnh viện Đà Nẵng)
- Trước phẫu thuật: bệnh nhân tắm và gội đầu bằng xà phòng kháng khuẩn Chlorhexidine 2%, đêm trước đối với bệnh nhân phẫu thuật buổi sáng hôm sau, buổi sáng đối với bệnh nhân phẫu thuật buổi chiều. Thay quần áo sạch.
- Trước khi đưa bệnh nhân lên khoa Phẫu thuật – Gây mê hối sức: không cần cạo lông, nếu có yêu cầu cạo lông của phẫu thuật viên liên quan đến vết rạch da thì cạo bằng tông đơ hoặc bằng kéo trước lúc phẫu thuật. chuyển bệnh nhân lên phòng mổ.
- Tại khoa Phẫu thuật – Gây mê hối sức:
+ Tại phòng tiền phẫu: bệnh nhân thay quần áo, tả quần trong, drap vô khuẩn. Chuyển sang băng ca đã trải bọc vô khuẩn.
+ Tại phòng mổ: rửa và sát trùng vùng mổ bằng xà phòng kháng khuẩn Chlorhexidine 4% hoặc bằng Povidine Iodine 10% hoặc cả 2 loại (dụng cụ viên vòng ngoài thực hiện).
* Rửa tay kíp phẫu thuật: thực hiện theo quy trình rửa tay ngoại khoa[3]
* Sát trùng vùng mổ: chân mổ được sát trùng từ 1/3 trên đùi cho đến các ngón chân (phẫu thuật viên thực hiện).
2.2.3. Trong lúc phẫu thuật
- Rạch da trên lồi củ chày, doa vào lòng tủy, nắn lại xương.
- Kết hợp xương chày bằng đinh SIGN không mở ổ gãy.
- Khâu lại vết mổ, băng ép nhẹ bằng băng thun, không dẫn lưu.
- Mọi thao tác của kíp phẫu thuật, cũng như các quá trình vô khuẩn khác, phải hết sức lưu ý và thực hiện đúng nguyên tác vô khuẩn.
2.2.3. Chăm sóc sau phẫu thuật
- Kê chân trên giàn Braun, dùng thuốc giảm đau 3 – 5 ngày
- Bệnh nhân được thay băng lần đầu sau phẫu thuật 1 ngày. Những ngày tiếp theo nếu còn dịch thì thay băng, nếu hết dịch thì không cần thay băng.
- Theo dõi tình trạng vết mổ: sưng đỏ, tiết dịch, dịch mủ
- Nếu nghi ngờ nhiễm trùng vết mổ thì cấy dịch làm kháng sinh đồ.
- Theo dõi mạch, nhiệt độ hằng ngày.
- Xquang cẳng chân kiểm tra sau phẫu thuật.
- Xét nghiệm công thức bạch cầu sau phẫu thuật hoặc bất cứ khi nào nếu bệnh nhân có dấu hiệu nhiễm trùng.
- Cắt chỉ sau 10 ngày.
2.2.4. Theo dõi sau phẫu thuật
- Bệnh nhân được tái khám sau 1 tháng hoặc sớm hơn nếu có dấu hiệu bất thường
- Đánh giá vết mổ: sẹo liền tốt, không đau; vết mổ lùng nhùng dịch bên dưới; vết mổ rĩ dịch…
- Xquang cẳng chân: đánh giá can xương, viêm xương…
2.2.5. Kháng sinh dự phòng
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng kháng sinh cephalosporine thế hệ 1 Cefalothin 1g (tenafathin 1000).
Cách dùng: Tiêm tĩnh mạch 2 lọ trước rạch da 30 phút đến 60 phút, thường trước khi chích tê tủy sống hoặc khởi mê. Nhắc lại liều thứ 2 sau 6 giờ.
2.2.6. Đánh giá quy trình vô khuẩn bằng cấy khuẩn
2.2.6.1. Đánh giá quy trình chuẩn bị da, vô khuẩn lúc phẫu thuật
Chọn ngẫu nhiên 30 bệnh nhân và kíp phẫu thuật, sao cho mỗi tháng ít nhất 5 bệnh nhân và kíp phẫu thuật. Ứng với mỗi bệnh nhân và kíp phẫu thuật lấy 5 bệnh phẩm.
- Bệnh phẩm 1: lấy ở da vùng phẫu thuật sau khi tắm rữa bệnh nhân, lúc vào phòng mổ.
Bệnh phẩm 2: lấy ở da vùng phẫu thuật trước khi rạch da (sau khi đã trải khăn vô khuẩn).
Bệnh phẩm 3: lấy ở mép vết mổ trước khi đóng da (lúc chưa sát trùng lại bằng povidine).
Bệnh phẩm 4: Lấy ở vết mổ vào lúc thay băng lần đầu.
Bệnh phẩm 5: tay kíp phẫu thuật sau khi đã rửa tay.
2.2.6.3. Cấy không khí phòng phẫu thuật
Cấy tại phòng phẫu thuật chấn thương, lúc đang phẫu thuật.
Thời điểm lấy: mỗi tháng lấy 1 lần/ 2 phòng mổ, lấy trong 6 tháng.
2.2.7. Nội dung nghiên cứu đề tài
- Đặc điểm chung: Tuổi, Giới
- Phân loại phẫu thuật theo ASA
- Thời gian phẫu thuật
- Tình trạng nhiễm trùng
- Thang điểm NNIS
- Thời gian nằm viện
- Công thức bạch cầu trước sau phẫu thuật.
- Liên quan giữa loại KSDP và tỷ lệ nhiễm trùng.
- Đánh giá quy trình vô khuẩn
- Phân tích các loại vi khuẩn thường gặp.
2.3. Phương pháp phân tích số liệu:
Xử lý số liệu theo phần mềm y học SPSS
Chương 3
\ DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Mở ra khả năng ứng dụng KSDP trong lĩnh vực ngoại khoa
Đêm lại hiệu quả kinh tế lớn nếu áp dụng KSDP trong lĩnh vực ngoại khoa
Đánh giá được quy trình vô khuẩn trong phẫu thuật
KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG VÀ
KẾ HOẠCH ỨNG DỤNG ĐỀ TÁI
Đề tài có thể áp dụng ở các bệnh viện lớn có hệ thống phòng mổ với quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn tốt và quy trình chuẩn bị da bệnh nhân trước phẫu thuật tốt.
KẾ HOẠCH THỰC HIỆN ĐỀ TÁI
Các nội dung công việc
Sản phẩm đạt được
Thời gian
Đơn vị thực hiện, người chủ trì
Thu thập số liệu
Đọc tài liệu
Số liệu bệnh nhân
Tháng 3/2018– 10/2018
BV Đà Nẵng
Bs Ngô Hạnh
Xử lý số liệu
Viết đề tài
Đề tài hoàn chỉnh
Tháng 10/2018
BV Đà Nẵng
Bs Ngô Hạnh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bệnh viện Chợ Rẫy (2013), Khuyến cáo kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật, Hướng dẫn sử dụng kháng sinh, Lưu hành nội bộ, trang 25 -27.
2. Trần Đình Bình (2016), Dự phòng nhiễm khuẩn vết mổ, Bệnh viện Đại học Y Dược Huế, http://bvydhue.com.vn
3. Bộ Y tế (2017), Quy trình vệ sinh tay ngoại khoa, Theo hướng dẫn thực hành vệ sinh tay, Ban hành theo Quyết định số 3916/QĐ-BYT, ngày 28/8/2017.
4. Lê Thế Trung (1992), Nhiễm khuẩn ngoại khoa, Bài giảng bệnh học ngoại khoa sau đại học tập 1, Học viện Quân Y, trang 87-97.
5. Phùng Văn Tuấn, Lê Hồng Hải và cộng sự (2016), Kinh nghiệm sử dụng kháng sinh dự phòng tại Khoa Phẫu thuật Khớp, Viện Chấn thương Chỉnh hình Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, http://benhvien108.vn
Tiếng Anh
6. Ewout S., Veltman E. S. et al (2018), Antibiotic Prophylaxis and DAIR Treatment in Primary Total Hip and Knee Arthroplasty, A National Survey in The Netherlands, Journal of Bone and Joint Infection, vol: 3(1), trang 5- 9. http://www.jbji.net/v03p0005s1.pdf
7. Gans I. et al, Current practice of antibiotic prophylaxis for surgical fixation of closed long bone fractures: a survey of 297 members of the Orthopaedic, Trauma Association Patient Safety in Surgery (2017) 11:2.DOI 10.1186/s13037-016-0118-5
8. Mangram A. J., Horan T. C., et al (1999), Centers for Disease Control and Prevention (CDC) Hospital Infection Control Practices Advisory Committee. Guideline for prevention of surgical site infection, Am J Infect Control. Vol: 27(2), trang 97-132.PubMedGoogle ScholarCrossref.
9. Musmar S. M. I. et al, (2014), Adherence to guidelines of antibiotic prophylactic use in surgery: a prospective cohort study in North West Bank, Palestine, BMC Surgery 2014, 14:69.http://www.biomedcentral.com/1471-2482/14/69.
10. Yazdi I.K. et al, (2014),Cefazolin-loaded mesoporous silicon microparticles show sustained bactericidal effect against Staphylococcus aureus, Journal of Tissue Engineering, Volume 5, trang 1–10
Tiếng Pháp
11. Lasne M. J. (1994), Antibiotherapie prophylactique en milieu chirurgical, Anesthésie réanimation urgences, Tome III, trang 1939 – 1955.
12. Martin C. et al (1997), Antibioprophylaxie en chirurgie, Higiène hospitalière, trang 257 – 274.