Nghiệp tạo tác: Nghĩa là hoặc tư nghiệp, hoặc tư duy rồi dấy khởi thân nghiệp, ngữ nghiệp.Nghiệp không tạo tác: Tức như bất tư nghiệp, hoặc không tư
duy rồi, không dấy khởi thân nghiệp, ngữ nghiệp.Nghiệp tăng trưởng: Nghĩa là trừ mười thứ nghiệp: (1) Nghiệp do nằm mộng tạo ra. (2) Nghiệp do không hiểu biết tạo ra. (3) Nghiệp do không cố suy xét tạo ra. (4) Nghiệp do không lợi, không cân nhắc tạo ra. (5) Nghiệp do cuồng loạn tạo ra. (6) Nghiệp do mất chánh niệm tạo ra. (7) Nghiệp do không ham thích tạo ra. (8) Nghiệp tự tánh là vô ký. (9) Nghiệp hối tiếc về chỗ tổn hại. (10) Nghiệp đối
trị chỗ tổn hại. Trừ mười thứ nghiệp này, các nghiệp còn lại gọi là nghiệp tăng trưởng.Nghiệp không tăng trưởng: Tức là mười thứ nghiệp đã nêu.
Nghiệp cố suy xét: Nghĩa là cố suy xét rồi, hoặc là nghiệp tạo tác, hoặc là nghiệp tăng trưởng.Nghiệp không cố suy xét: Nghĩa là nghiệp do không cố suy xét tạo ra.Nghiệp thuận định thọ: Nghĩa là cố suy xét rồi, hoặc là nghiệp tạo tác, hoặc là nghiệp tăng trưởng.Nghiệp thuận bất định thọ: Tức là cố suy xét rồi, tạo tác nghiệp không tăng trưởng.Nghiệp dị thục đã thành thục: Nghĩa là nghiệp đã cho quả.Nghiệp dị thục chưa thành thục: Nghĩa là nghiệp chưa cho quả.Nghiệp thiện: Là nghiệp do không tham không sân không si làm nhân duyên.Nghiệp bất thiện: Là nghiệp do tham sân si làm nhân duyên.
Nghiệp vô ký: Là nghiệp không phải do không tham không sân không si làm nhân duyên, cũng không phải do tham sân si làm nhân duyên. Nghiệp thuộc về luật nghi: Nghĩa là hoặc nghiệp thuộc về luật nghi biệt giải thoát, hoặc nghiệp thuộc về luật nghi quả đoạn của tĩnh lự, đẳng chí. Hoặc nghiệp thuộc về luật nghi vô lậu.Nghiệp thuộc về không luật nghi: Tức là mười hai thứ các nghiệp thuộc loại không luật nghi: (1) Giết dê. (2) Mua bán gà. (3)
Mua bán heo. (4) Bắt chim. (5) Giăng lưới bắt thỏ. (6) Trộm cắp. (7)Dùng loài nghêu sò làm nem. (8) Giữ ngựa. (9) Gièm pha. (10) Xét xử án. (11) Trói cột voi. (12) Trù ếm rồng.Nghiệp thuộc về không phải luật nghi không phải không luật nghi: Nghĩa là trừ ba thứ nghiệp luật nghi và loại nghiệp không luật nghi, số còn lại là tất cả nghiệp thiện, bất thiện, vô ký.Nghiệp tánh thí: Nghĩa là hoặc nhân duyên, hoặc cùng khởi, hoặc chỗ dựa, hoặc tự tánh.
Hoặc nhân duyên: Tức là do không tham không sân không si làm nhân duyên. Hoặc cùng khởi: Tức là do không tham không sân không si cùng hiện hành, có thể xả bỏ các vật để bố thí, có thể dấy khởi thân nghiệp, ngữ nghiệp có suy xét. Hoặc chỗ dựa: Tức là xem vật được bố thí và kẻ thọ nhận là
chỗ dựa. Hoặc tự tánh: Nghĩa là thân nghiệp, ngữ nghiệp do suy xét dấy khởi, có thể xả bỏ vật để bố thí. Như nghiệp tánh thí, nghiệp tánh giới, nghiệp tánh tu, tùy chỗ ứng hợp, nên biết cũng vậy. Ở đây, nghiệp tánh giới, về nhân duyên, cùng khởi giống như trước. Về tự tánh: Tức là thân nghiệp, ngữ nghiệp v.v… thuộc về luật nghi. Về chỗ dựa: Tức là các vật của hữu tình, phi hữu tình. Nhân duyên của tánh tu: Nghĩa là nhân duyên của Tam-ma-địa,
tức không tham không sân không si.Cùng khởi: Nghĩa là không tham không sân không si cùng hiện hành, dẫn khởi định, tư. Tự tánh: Là Tam-ma-địa.
Chỗ dựa: Tức là cảnh giới của hữu tình không khổ không vui trong mười phương. Lại gồm đủ thí, giới, tu: Là tướng mạo hiện có nên biết. Hết thảy như nơi chỗ khác đã nói rõ. Nghiệp phước: Nghĩa là chiêu cảm dị thục của nẻo thiện, cùng thuận thọ nghiệp thiện của năm nẻo.Nghiệp không phải phước: Tức là chiêu cảm dị thục của nẻo ác cùng thuận theo năm nẻo thọ nhận nghiệp bất thiện.Nghiệp bất động: Là chiêu cảm dị thục của cõi sắc, vô sắc,
cùng thuận theo cõi sắc, vô sắc thọ nhận nghiệp thiện.Nghiệp thuận lạc thọ: Là nghiệp phước cùng thuận theo ba tĩnh lự thọ nhận nghiệp bất động.
Nghiệp thuận khổ thọ: Là nghiệp phi phước.Nghiệp thuận không khổ không lạc thọ: Là nghiệp dị thục của thức A-lại-da có thể chiêu cảm tất cả xứ, cùng nghiệp bất động của tĩnh lự thứ tư trở lên.Nghiệp thuận hiện pháp thọ: Là nghiệp có thể chiêu cảm quả hiện pháp.Nghiệp thuận sinh thọ: Là nghiệp có thể chiêu cảm sinh quả không gián đoạn.Nghiệp thuận hậu thọ: Là nghiệp có thể chiêu cảm quả hậu sinh kia.Nghiệp quá khứ: Là nghiệp trụ nơi vị tập khí, hoặc đã cho quả,hoặc chưa cho quả.Nghiệp vị lai: Là nghiệp chưa sinh, chưa diệt.Nghiệp hiện tại: Là nghiệp đã tạo, đã tư duy, chưa hoại diệt.
Nghiệp thuộc cõi dục: Là nghiệp có thể chiêu cảm dị thục của
cõi dục, gắn liền Dục giới.
Nghiệp thuộc cõi sắc: Là nghiệp có thể chiêu cảm dị thục của
cõi sắc, gắn liền Sắc giới.
Nghiệp thuộc cõi vô sắc: Là nghiệp có thể chiêu cảm dị thục
của cõi vô sắc, gắn liền với Vô sắc giới.
Nghiệp học: Là nghiệp thiện hiện có trong sự tu học nối tiếp
của hàng dị sinh hoặc chẳng phải dị sinh (phàm phu).
Nghiệp vô học: Là nghiệp thiện hiện có trong sự nối tiếp của
bậc vô học.
Nghiệp phi học phi vô học: Là nghiệp thiện, bất thiện, vô ký
hiện có trong sự nối tiếp còn lại (trừ hai thứ trước).
Nghiệp do kiến đạo đoạn trừ: Là nghiệp bất thiện v.v… thọ
nhận nơi nẻo ác.
Nghiệp do tu đạo đoạn trừ: Là nghiệp thiện, bất thiện, vô ký
thọ nhận nơi nẻo thiện.
Nghiệp không đoạn trừ: Là các nghiệp vô lậu của thế gian và
xuất thế gian.
Nghiệp dị thục đen đen: Là nghiệp phi phước.
Nghiệp dị thục trắng trắng: Là nghiệp bất động.
Nghiệp dị thục đen trắng đen trắng: Là nghiệp phước, có nghiệp
bất thiện là oán đối, do căn cứ vào lúc nghiệp phước hiện có nhưng
chưa đoạn nghiệp phi phước, để kiến lập.
Nghiệp có thể đoạn trừ hết các thứ nghiệp không dị thục, chẳng
phải đen chẳng phải trắng: Là các nghiệp vô lậu xuất thế gian. Đó là
sự đối trị, đoạn trừ ba nghiệp.
Nghiệp cong vạy: Là nghiệp thiện, bất thiện của các ngoại đạo.
Nghiệp cấu uế: Tức nghiệp cong vạy, cũng gọi là nghiệp cấu uế.
Lại có nghiệp cấu uế: Là nghiệp thiện bất thiện hiện có của
pháp dị sinh ấy, ở trong thánh giáo, khởi kiến chấp điên đảo, trụ nơi
kiến thủ của mình, quyết định sai lạc, do dự về hiểu biết.
Nghiệp ô trược: Tức nghiệp cong vạy, nghiệp cấu uế, cũng gọi
là nghiệp ô trược.
Lại có nghiệp ô trược: Là nghiệp thiện, bất thiện hiện có của
pháp dị sinh, ở trong thánh giáo không quyết định, do dự về hiểu biết.
Lại có sai khác: Chỉ ở trong pháp của ngoại đạo mới có ba
nghiệp này. Do nghĩa hành giải tà, nên gọi là cong vạy. Do nghiệp lấy
điều ấy làm chỗ dựa, có thể gây chướng ngại cho việc phát khởi các
công đức, nên gọi là cấu uế. Do nghĩa có thể gây chướng ngại cho
việc thông đạt chân như, nên gọi là ô trược.
Nghiệp thanh tịnh: Là nghiệp thiện hiện có của pháp dị sinh ấy,
ở trong thánh giáo, quyết định đúng đắn, hiểu biết không do dự.
Nghiệp tịch tĩnh: Là nghiệp học, vô học hiện có của hết thảy
bậc Thánh trụ nơi pháp ấy, không phải là dị sinh.
h. Thế nào là lỗi lầm, tai họa của nghiệp? Nên biết là lược nêu
có bảy thứ lỗi, họa. Nghĩa là sát sinh: Sát sinh là nhân, có thể là tự
hại, có thể là hại kẻ khác, có thể là hại cả hai, sinh tội nơi hiện pháp,
sinh tội nơi hậu pháp, sinh tội cả nơi hiện pháp, hậu pháp, thân tâm
thọ nhận sầu khổ sinh khởi.
Thế nào là có thể tự hại? Nghĩa là vì phát khởi phương tiện sát
hại sinh mạng, do nhân duyên ấy, nên tự bị hại, hoặc bị trói cột, hoặc
gặp phải sự mất mát, hoặc bị chê trách, nhưng kẻ ấy không thể gây
tổn hại cho người khác.
Thế nào là có thể hại kẻ khác? Tức do chỗ khởi phương tiện
ấy, có thể gây tổn hại kẻ khác. Vì nhân duyên ấy nên không tự bị hại
cho đến chê trách.
Thế nào là có thể hại cả hai? Tức do chỗ dấy khởi phương tiện
ấy, nên có thể gây tổn hại cho kẻ khác. Vì nhân duyên đó, nên lại bị
kẻ khác hại, hoặc bị buộc trói, cho đến chê trách.
Thế nào là sinh tội nơi hiện pháp? Là như có thể gây tự hại.
Thế nào là sinh tội nơi hậu pháp? Là như có thể gây hại cho
kẻ khác.
Thế nào là sinh tội cả nơi hiện pháp, hậu pháp? Tức là như có
thể gây hại cho cả hai. DGSĐ LUẬN tập 1 quyển 9 pdf trg 301>306