Trả lời :
1-Trường hợp uống đường sai cách :
Tây y gọi là đường huyết, có nghĩa tỷ lệ đường có trong tổng số dung dịch lượng máu.
Lấy thí dụ có 5 người đều có lượng máu là 4 lít, sau khi thử đường đều có kết qủa là 100mg/dl.
Mọi người phải uống thêm 8 thìa cà phê đường cát vàng theo lý thuyết đường
Người thứ nhất uống đường khô 8 thìa rồi uống 1-2 ngụm nước xúc miệng thì tỷ lệ đường trong máu là 8/4 lít, đo đường sẽ là trên dưới 180mg/dl
Người thứ hai sợ ngọt, cứ mỗi thìa uống khô 1 thìa với 1 ngụm nước, 8 thìa là 8 ngụm nước thì lượng máu là 4,5 lít, thì tỷ lệ đường là 8/4,5lít, đo đường huyết sẽ là trên dưới 160md/dl
Người thứ ba, cứ 1 thìa đường uống 2 ngụm nước, tỷ lệ đường trong dung dịch máu là 8/5 ĺit thì đo đường huyết trên dưới 140mg/dl
Người thứ tư cứ mỗi thìa đường uống 3 ngụm nước, tỷ lệ đường trong máu lả 8/5.5lít, đo đường huyết trên dưới 120mg/dl
Người thứ năm uống nước nhiều hơn thì tỷ lệ đường huyết càng thấp nữa có thể vẫn còn 100mg/dl hay lại thấp hơn còn 90mg/dl...
Chỉ nói đến cách uống đường của người thứ tư, trong người có 4 lít máu mà uống thêm 1.5 lít nước vào làm căng đầy bao tử gây chướng bụng khó thở, nhưng vẫn không đủ đường cho bao tử chuyển hóa thức ăn.
Nếu do thiếu đường huyết sau mỗi khi ăn thì thức ăn cũ không chuyển hóa vẫn còn trong bao tử, có dấu hiệu trước khi ăn áp huyết đo bên bao tử cao, sau khi đo áp huyết tâm thu còn tăng cao hơn trước khi ăn, có nghĩa thức ăn làm đầy bao tử gây chướng tức bụng, thức ăn trong bao tử không tiêu sẽ kết hòn cục lâu ngày sẽ làm chặn đường xuống của thức ăn xuống ruột, nên mới có dấu hiệu sau khi ăn tức chướng bụng, khó thở áp huyết cao
2-Trường hợp bao tử kết hòn cục thức ăn không thông xuống ruột.:
Khi đường trong máu đo thấp 100mg/dl, mà khi uống thêm đường dù 10 thìa hay 20 thìa, đo đường cũng vẫn thấp trên dưới 100mg/dl, phải nghĩ ngay đến sự tắc nghẽn ở đáy bao tử chỗ nối cuống bao tử và ruột non,
Như thị dụ trên, lượng máu trong người giả sử 4 lít, khi thử đường huyết là 100mg/dl, khi uống 20 thìa đường và 1 lít nước, đường và nước vẫn bị kẹt nằm trong bao tử không xuống ruột vào máu để tăng lượng máu và đường, nên thử đường trong máu vẫn là 100mg/dl, sẽ có dấu hiệu cảm thấy ngọt lợm giọng, muối ói, hay uống xong bị ói ra nước đường làm mệt tim, còn nếu không ói ra được, bụng vẫn đầy tức khó thở, sau đó bao tử phải tăng lượng acid để trung hòa đường lại làm xót bao tử, ợ chua, gây loét bao tử làm đau. tình trạng này kéo dài cũng gây ra ung thư bao tử do pH trong bao tử qúa nhiều acid
3-Tại sao có trường hợp bị ói và không bị ói ra nước đường.
Có 3 trường hợp xẩy ra :
a-Tùy theo dung tích chứa của bao tử, khi đo áp huyết bên tay trái sẽ thấy rõ, trước khi uống nước đường đo áp huyết tay trái có tâm thu thấp thí dụ 120mmHg, sau khi uống nước đường, đo lại tâm thu tăng cao 130mmHg, mà đáy bao tử bị chặn nước đường không xuống thì bị tức chướng bụng, khó thở nhưng không bị ói.
b-Ngược lại tình trạng trào ngược thực quản là trước khi uống nước đường, áp huyết tâm thu cao, sau khi uống, áp huyết tâm thu thấp, thì nước đường và thức ăn không xuống ruột mà trào lên cổ họng, trường hợp này cảm thấy cổ họng ngọt, khó chịu, nhưng không chướng bụng, không khó thở, chỉ muốn ói mà không ói ra được.
c-Trường hợp trước và sau khi uống nước đường, mà áp huyết tâm thu giống nhau, có nghĩa là dung tích bao tử không thay đổi, không co bóp, sẽ không có thể chứa thêm được gì trong bao tử, nên uống vào ói ra ngay, có nghĩa dung tích bao tử đã đầy không thể chứa gì thêm, mà khi đói bụng cũng không thể ăn gì thêm sẽ bị ói ra.
4-Cách xúc trống bao tử.
Nấu 4 củ sả đập dập với hơn 1/2 lít nước trong nồi cho mau chín, xong tắt lửa, thái khoanh mỏng 1 qủa chanh cả vỏ đã rử̉a sạch bỏ vào nồi đậy nắp cho chanh thấm vào nước sả. Rót ra 1 ly uống ngay lúc nóng ấm.
Công dụng bài thuốc này làm tiêu hóa thức ăn, tiêu mỡ cholesrol, phá thức ăn trong bao tử bị kết hòn cục tắc nghẽn không xuống ruột, khi uống xong cảm thấy bụng sôi, thức ăn trong trong bao tử chạy xuống ruột, bao tử trống, đói bụng đòi ăn, có người đã phải thốt lên câu : thuốc này làm đói bụng thèm ăn dã man.
Thuốc có công dụng làm hạ áp huyết cả 3 số và làm hạ đường.
Thí dụ trước khi uống thuốc áp huyết trước khi ăn và sau khi ăn lúc nào cũng cao như
160-170/90-110mmHg 90-100, tâm thu cao làm nhức đầu, tân trương cao làm đầy bụng, nhiều cholesterol, nhịp tim cao làm người nóng, khó thở, mệt, sau khi uống thuốc này, khi nghe thấy bụng sôi, và tự nhiên cảm thấy nhẹ bụng không còn căng tức chướng bụng hay khó thở, đo lại áp huyết xuống bình thường chỉ còn trên dưới 130/80mmHg 75, đường huyết trở lại bình thường theo tiêu chuẩn đói-no thì đủ đường chuyển hóa thức ăn.
Trước khi dùng bài thuốc này, nên thử má́u xem lượng cholesterol và triglycerid cao bao nhiêu, sau khi uống từ 3-7 ngày, đi thử lại cholesterol vat triglycerid sẽ thấy xuống thấp mà các bác sĩ cũng phải ngạc nhiên, hỏi mình ăn uống gì mà đã hết bệnh cao máu cao mỡ.
Nhưng khi nói ra bài thuốc này, thì các bác sĩ cười khẩy nhún vai, lắc đầu, có nhiều ý nghĩa, một là không muốn tin vào bài thuốc vớ vẩn mà có kết qủa thực sự, hai là tự biết cách chữa theo tây y của mình không bằng bài thuốc này nhưng cũng đành chịu, không thể đem áp dụng cho tây y được sẽ bị mất bằng.
Có người phản đối KCYĐ chê tây y là do tính cố chấp, sự tiến bộ của ngành y cả về tây y và đông y là tài sản chung của nhân loại, vẫn có ưu điểm và khuyết điểm, khi chữa bệnh áp huyết và bệnh tiểu đường, cái nào ưu điểm thì mình chọn, cái nào khuyết điểm thì mình bỏ, nên môn KCYĐ là môn Y Học Bổ Sung chứ không phân biệt đông tây y, nếu đã là thầy thuốc chữa bệnh cứu người thì phải được học hết.
Nếu chúng ta được học cả tây y và đông y, khi chữa bệnh cao áp huyết thì phải khỏi bệnh, ít tốn kém cho bệnh nhân, thì cách chữa áp huyết có nhiều phương pháp như, không cần uống thuốc tây y suốt đời mà cho bệnh nhân dùng bài thuốc trên, cho bệnh nhân ngày nào cũng vuốt huyệt hai vành tai xuống, ngày nào sau bỡa ăn cũng tập bài Kéo Ép Gối cho tiêu thức ăn, cái nào có kết qủa thì tùy thầy chữa bệnh chọn, chứ không bắt buộc không được theo đông y mà phải uống thuốc, thì đó chỉ là bà̉o vệ cho ngành y học kinh doanh bán thuốc được ổn định lợi tức suốt đời, bác sĩ nào không theo đúng quy trình mà chữa theo phương pháp không phải tây y thì bị mất bằng.
Ngược lại tây y vẫn có cái hay như tai nạn gẫy tay chân thì đông y không chữa được phải vào bệnh viện cần mổ xẻ, nếu cho đông y học thì đông y cũng làm được, còn bác sĩ tây y nếu cho học đông y thì bác sĩ cũng làm được, lúc đó thầy thuốc chữa bệnh đều biết đông y đều biết tây y, thì cách chữa bệnh, họ có quyền chọn phương pháp nào tối ưu có kết qủa có lợi cho bệnh nhân, chứ không phải có lợi cho thầy thuốc, thì không còn ai chê đông y hay tây y dở cả