Với vẻ tự cao và phô trương, Vị Hoàng tử Điên Loạn của Oblivion đứng giữa những ngọn núi băng giá của Skyrim vào ngày thứ năm tháng Midyear và triệu hồi Hircine ra để đánh cược với mình. Vị Thần Thợ Săn giáng trần, vì hôm ấy chính là ngày lễ của ông ta, và vì ông tò mò trước sự tự tin của Sheogorath.
Với bản chất giễu cợt không ai sánh bằng, Sheogorath giam giữ bọn điên hay cười, lũ bốc phét lòe loẹt và bọn hành xác khát máu trong thế giới riêng của mình. Vị Hoàng tử Điên sẽ sẵn sàng đưa ra một thỏa thuận bất lợi và tạo ra những hiềm khích đẫm máu vô cớ chỉ để mua vui trước sự bối rối, bi kịch hay tức giận của người khác. Và đương nhiên là Sheogorath đã dựng lên một màn kịch, mà bản thân ông ta sẽ đóng vai đối thủ của Hircine.
Chẳng hề vội vã, Vị Hoàng Tử Điên nhã nhặn đưa ra lời thách đấu của mình; mỗi Hoàng tử sẽ chuẩn bị một con quái vật, hẹn sẽ tái ngộ ở nơi này sau ba năm, và đẩy hai sinh vật ấy vào một trận đấu quyết tử. Hircine chấp nhận lời thách đấu, khuôn mặt ông vẫn vô cảm đằng sau chiếc mặt nạ, và rồi vụt biến đi mà không để lại một dấu vết gì ngoài những dấu chân trên tuyết tại nơi mà ông đã đứng, hai vị Hoàng tử đã quay về thế giới của mình.
Dù tự tin rằng mình sẽ chiến thắng, nhưng Hircine biết rõ rằng Sheogorath là một kẻ khôn ranh, nên đã bí mật tạo ra con quái vật ghê tởm trong thế giới bí ẩn của mình. Ông triệu hồi một con quái vật Daedroth cổ xưa và ban cho nó với lời nguyền độc của Ma Sói. Với một trái tim hắc ám và bộ nanh lởm chởm, không ai có thể chống lại thứ sinh vật đáng kinh sợ này, kể cả những thợ săn tối cao trong vương quốc của Hircine.
Đúng ba năm sau, khi đến ngày đã định, Hircine quay trở lại điểm hẹn, và tại đấy Sheogorath đã đợi sẵn, ông dựa người vào một hòn đá, hai chân bắt chéo, nhàn rỗi huýt sáo. Vị Hoàng tử Săn bắn cắm ngọn giáo xuống đất, triệu hồi con quái thú kỳ dị, đang gầm gừ đe dọa. Sheogorath, vẫn ranh ma như thường lệ, đứng dậy ngả mũ và bước sang một bên để lộ ra một chú chim nhỏ nhắn với màu sắc sặc sỡ đang đậu trên hòn đá. Tiếng hót rụt rè của nó gần như là hòa lẫn với tiếng gió hú, khó có thể nghe rõ được.
Trong tích tắc, chỉ với một cú nhảy, con Daedroth đã ở bên trên tảng đá, và đập nó thành những mảnh vụn. Nghĩ rằng mình đã chiến thắng, con quái vật khát máu nhếch mép như là đang cười nhạo báng, cho đến khi một tiếng hót dịu dàng bỗng phát ra từ những ngọn gió khô khan. Chú chim nhỏ bé nhẹ nhàng nhảy nhót trên mõm của con Daedroth hung tợn. Sheogorath vẫn đang theo dõi, tỏ ra vui lòng, khi sinh vật nhỏ bé gắp lấy một ít đá vụn dính trên lớp vảy giữa đôi mắt của con quái thú khổng lồ. Con Daedroth bị nguyền, trong cơn cuồng nộ đáng sợ, đã tự làm mù chính nó khi đang cố bắt được con chim khó chịu ấy. Và con thú cứ tiếp tục quay cuồng trong suốt hàng giờ đồng hồ, còn Hircine thì nhục nhã chứng kiến con quái thú mạnh nhất của mình đang từ từ giết chết chính nó khi đang cố rượt đuổi một chú chim ngơ ngác, trong khi chú chim ấy thì đang hót trên một giai điệu u sầu mà chỉ mình chú nghe thấy.
Dù cáu giận, nhưng vẫn chấp nhận thua cuộc, Hircine đã đốt cái xác tả tơi của con quái vật và quay về thế giới của ông ta, miệng thì nguyền rủa bằng một ngôn ngữ đã bị lãng quên. Lời nguyền của ông ta vẫn còn vương lại trên những đỉnh núi ấy, khiến cho không một người lữ hành nào dám bén mảng đến nơi này bởi họ sợ hiện thân của ông ta trên những ngọn núi ấy sẽ nổi cơn thịnh nộ.
Sheogorath nhẹ nhàng quay gót, vẫy gọi chú chim nhỏ bé đậu trên vai mình và tản bộ xuống núi, tận hưởng làn gió ấm áp và hoàng hôn rực rỡ của bờ biển Abecean, huýt sáo cùng giai điệu với nhà vô địch tí hon của Tamriel.
Darius Shano nhận ra rằng mình phải chạy nhanh hết sức có thể.
Nhưng không biết mình đang chạy khỏi thứ gì hay đang chạy tới nơi nào, và điều đó cũng chẳng đáng bận tâm. Bây giờ trong đầu y chỉ nghĩ đến một thứ thôi -- không có gì quan trọng bằng việc bỏ chạy. Y nhìn xung quanh, tìm bất cứ vật mốc nào để có thể dừng chân hoặc làm đích đến, nhưng vô ích – y đang chạy trên một đồng cỏ bát ngát, trải dài vượt qua cả tầm nhìn của y. “Phải tiếp tục chạy”, y nghĩ trong đầu. “Mình phải chạy nhanh hết mức có thể”. Cứ như thế chạy đi, không có điểm dừng nào hiện hữu ở trước mặt hay trong tâm trí…
Đứng trước Darius Shano trong khi ông ta đang say giấc trên giường của mình là vị Nữ Thần của ông ta, Vaermina, Người Thêu dệt Giấc mơ, và vị thần Điên rồ Sheogorath. Vaernima kiêu hãnh nhìn xuống tên môn đồ của mình, và tỏ thái độ khoe khoang về viên ngọc nhỏ bé của bà.
“Thứ này chứa đầy tiềm năng! Thông qua những giấc mơ đầy động lực, ta đã nuôi dưỡng thành công tài năng văn học của hắn, và giờ hắn ta được hoan nghênh như một thi sĩ mới nổi! Hắn sẽ giành được nhiều sự ưu ái trước khi ta cảm thấy chán”. Sheorogath cũng nhìn chằm chằm vào nghệ sĩ người Breton trẻ tuổi và phải công nhận rằng người này thật sự vượt trội hơn những người phàm khác.
“Hmmm,” Sherogath đăm chiêu, “nhưng có bao nhiêu kẻ ganh ghét tên người phàm mà cô đã nuôi dưỡng? Chính sự thù hận của những kẻ phàm trần ấy là minh chứng cho sự vĩ đại của y, chứ không phải là tình yêu chúng dành cho y. Chắc hẳn là cô cũng có thể nuôi dưỡng y như vậy, đúng chứ?”.
Vaernima nheo mắt. “Đúng vậy, lũ phàm trần thường ngu ngốc và nhỏ mọn, và đúng là có rất nhiều kẻ nổi bật hơn những tên khác trở thành những kẻ bị căm ghét. Nhưng ông đừng lo, kẻ điên ạ, bởi vì ta có khả năng đem lại sự vĩ đại cho tên này bằng nhiều cách khác nhau, và sự ganh ghét là một trong số đó”.
“Có lẽ là thế, Người thêu dệt Giấc mơ ạ, sẽ thật thú vị khi cả hai chúng ta cùng phô trương quyền năng này để xem ai tốt hơn ai hơn chứ nhỉ? Cô hãy truyền sự hồ đồ và bản tính ganh ghét, cao ngạo cho tên người phàm này trong suốt 10 năm, rồi sau đấy tôi sẽ làm y như cô vậy. Để xem ai trong chúng ta sẽ là người quyền năng nhất trong việc này mà không cần đến sự hỗ trợ hay can thiệp của bất cứ Daedra nào khác”.
Lúc này, bà ta thoải mái, lộ rõ vẻ tự tin đầy thỏa mãn của mình. “Vị thần Điên rồ rất quyền năng, nhưng khả năng của ta trong chuyện này lại thích hợp hơn. Những tên người phàm thường tránh xa những kẻ điên loạn, nhưng lại hiếm khi nghĩ rằng chúng đáng bị căm ghét. Ta sẽ vui lòng khiến ông nhận ra sự thật này, trong khi ta mang nỗi kinh hoàng mơ hồ ra khỏi tiềm thức của tên phàm nhân này”.
Và thế là, đến năm y tròn 19 tuổi, những giấc mơ của Darius Shano đã bắt đầu thay đổi. Nỗi sợ đã luôn là một phần của ban đêm đối với y, nhưng giờ đây thì còn có thêm những thứ khác nữa. Bóng đêm bắt đầu len vào giấc ngủ của ông ta, thứ bóng đêm này hút lấy mọi cảm xúc và màu sắc, chỉ chừa lại sự trống trải. Mỗi khi Darius trải nghiệm chuyện này, y lại mở miệng la hét, chỉ để nhận ra rằng bóng tối cũng đã lấy đi giọng nói của mình. Tất cả những gì y sở hữu chỉ là nỗi kinh hoàng và hư không, và mỗi tối thì chúng lại lấp đầy tâm trí y bằng những sự hiểu biết mới về cái chết. Tuy vậy, mỗi khi y tỉnh dậy, thì nỗi sợ luôn biến mất bởi y luôn tin tưởng vị Nữ thần đã có dự định dành cho y rồi.
Quả là như vậy, vào một đêm, Vaernima hiện ra từ hư không. Bà ta đi đến và thì thầm vào tai y. “Hãy xem cho thật kĩ, hỡi môn đồ yêu dấu của ta!” Cùng lúc đó, bà ta kéo hư không đi và suốt hàng giờ mỗi đêm bà ta sẽ khiến Darius phải chứng kiến những sự trụy lạc khủng khiếp nhất của tự nhiên trong mơ. Những con người đang bị lột da và ăn sống bởi những người khác, những con thú kỳ dị bậc nhất với hàng đống chi và miệng, toàn bộ nhân loại đang bị thiêu sống -- tiếng hét của họ vang vọng suốt nhiều đêm. Dần dần, những ảo tưởng ấy đã gặm nhấm tâm hồn của Darius và những sáng tác của y bắt đầu mang bản chất của những cơn ác mộng mà y đã trải qua. Những hình ảnh mà y nhìn thấy mỗi đêm bắt đầu được tái hiện lại trên những trang giấy, sự tàn nhẫn khủng khiếp và sự đồi bại dối trá chứa trong những tác phẩm của y đã khiến cho công chúng vừa ghê tởm vừa hứng thú. Họ say sưa trong sự ghê tởm dành cho những chi tiết ấy. Có cả những kẻ công khai thích thú những tác phẩm gây sốc của y và sự nổi tiếng đấy chỉ ngày càng nuôi lớn lòng ganh ghét của những ai cho rằng y là một kẻ gớm ghiếc. Điều này cứ tiếp diễn trong vài năm, và độ khét tiếng của Darius cứ tăng lên đều đặn. Sau đấy, vào năm 29 tuổi, không một lời báo trước, những giấc mơ và những cơn ác mộng đột ngột biến mất.
Thay vì cảm thấy nhẹ nhõm, bởi không còn phải chịu đựng những đợt tra tấn hằng đêm, thì Darius lại cảm thấy bối rối. “Mình đã làm gì sai để khiến cho Nữ Thần phải thất vọng?” Y to tiếng thắc mắc “Tại sao Người lại bỏ rơi con?” Vaernima không bao giờ trả lời những lời cầu nguyện của y. Không một ai trả lời cả, và những giấc mơ bất tận dần tan biến, để lại Darius với những giấc ngủ sâu và dài.
Dần dần, mọi người ít quan tâm đến các tác phẩm của Darius hơn. Lời văn của y trở nên nhạt nhẽo, còn ý tưởng của Darius không còn kích động những cú sốc và sự phẫn nộ từ những độc giả như trước được nữa. Khi ký ức về danh vọng và những giấc mơ kinh hoàng mà y từng có mờ dần đi, những câu hỏi dồn dập trong đầu y dần trở thành sự oán giận đối với Vaernima, nữ thần cũ của mình. Nỗi oán giận trở thành sự thù ghét, sự thù ghét trở thành chế giễu, và sau một thời gian thì sự chế giễu trở thành sự hoài nghi. Dần dần, mọi thứ trở nên rõ ràng hơn -- Vaernima chưa bao giờ giao tiếp với y; tất cả những giấc mơ của y đơn giản chỉ là những thành quả của tâm trí bệnh hoạn của y đang tìm cách trở lại bình thường. Y đã bị lừa dối bởi chính tiềm thức của mình, sự phẫn nộ và nhục nhã đã lấn át tâm trí y. Kẻ đã từng nói chuyện với một vị thần giờ đây đã trở thành một tên dị giáo.
Dần dần, tất cả sự cay đắng, nghi ngờ và sự báng bổ của Darius đã kết hợp lại và rèn nên một triết lý sáng tạo, được thêu vào trong tất cả những tác phẩm tiếp theo của y. Y đã thách thức chính các Vị thần, cũng như cái xã hội ấu trĩ và đất nước thối nát tôn sùng họ. Y chế giễu tất cả bọn họ với sự châm biếm ngang tàng, không chừa bất kỳ ai và không hề tỏ ra nhân nhượng. Y công khai thách thức các bị thần đánh chết mình nếu họ có tồn tại, và chế nhạo bọn họ nếu như không có gì xảy ra. Vì tất cả những điều này, đám đông đã phản ứng còn dữ dội hơn cả với những tác phẩm mà y đã sáng tác trước đấy. Nếu như sự nghiệp của y ban đầu chỉ bị chọc tức những kẻ nhạy cảm, thì giờ đây tác phẩm của y đang đánh vào chính trái tim của tất cả mọi người.
Những tác phẩm của y dần trở nên dài dòng và nặng lời hơn. Những điện thờ, tầng lớp quý tộc, và cả thường dân đều bị ông ta nhắm đến với sự khinh miệt. Cuối cùng thì, ở tuổi thứ 39, Darius đã cho ra đời một tác phẩm mang tên “Gã Đần Độn Cao Quý Nhất”, chế giễu cả Vị Hoàng đế Thần Thánh Tiber Septim vì đã sát nhập giáo phái Chín Vị Thần thảm hại. Vị vua xứ Daena, người từng bị sỉ nhục bởi gã kiêu căng này trong quá khứ, thấy được cơ hội trả thù của mình -- với tội danh bổ báng thần thánh chống lại Đế Chế, Darius Shano đã bị xử chém, bằng một con dao tế, ngay trước đám đông hàng trăm người đang hò hét. Những lời cay đắng cuối cùng của y được thốt ra ùng ục từ cái miệng đầy máu của mình.
20 năm kể từ khi họ cá cược, Vaernima và Sheogorath gặp nhau trước cái xác không đầu của Darius Shano. Người Thêu dệt Giấc mơ đã rất háo hức mong đợi đến cuộc gặp này; bà đã chờ nhiều năm để đối chất với vị Hoàng tử Daedric về việc ông ta đã không làm gì.
“Ông đã lừa ta, Sheogorath! Ta đã hoàn thành phần việc của mình như đã thỏa thuận, nhưng trong suốt mười năm qua ông chưa bao giờ tương tác với tên người phàm này dù chỉ một lần. Tiếng tăm của hắn trong mười năm qua không phải là thành quả của ông hay là tầm ảnh hưởng của ông!”
“Vô lý” vị thần Điên loạn càu nhàu. “Ta đã ở bên cạnh y ngay từ đầu rồi! Khi khoảng thời gian của cô kết thúc và đến lượt ta bắt đầu, những lời thì thầm của cô vào tai y đã bị thay thế bởi sự im lặng. Ta đã chia rẽ y khỏi những những nguồn an ủi, những nguồn động lực của y, và ta cũng đã giấu đi sự quan tâm mà y thèm khát. Không có nữ thần của mình, tính cách của y có thể dồn nén lại rồi trở thành sự oán hận và thù giận. Bây giờ bên trong y chỉ còn đầy sự cay đắng và điên cuồng được lòng hận thù thúc đẩy, y sẽ phục vụ ta trong thế giới của chính ta với danh nghĩa là một bầy tôi vĩnh hằng.”
Sheogorath quay đi và nói với khoảng không bên cạnh ông ta. “Đúng vậy, Darius Shano là một phàm nhân tuyệt vời. Bị căm ghét bởi chính dân tộc của y, bởi những vị vua và cả những vị thần mà y đã chế giễu. Vì ta đã thắng cược, nên ta sẽ nhận lấy ba mươi tên môn đồ của Vaernima vào phục vụ cho ta. Và khi những kẻ đang say ngủ ấy tỉnh giấc, chúng sẽ trở thành những tên điên rồ của ta.”
Và thế là Sheogorath đã dạy Vaernima rằng, nếu như không có sự điên cuồng thì sẽ không có những giấc mơ hay là sự sáng tạo. Và Vaernima cũng sẽ không bao giờ quên được bài học này.
Vào khoảng thời gian trước khi Orsinium được thành lập, tộc Orc đã bị khinh miệt và ngược đãi thậm chí còn khắc nghiệt hơn cả những gì mà con cháu của họ ngày nay phải trải qua. Bởi vậy nên đã có nhiều chiến binh người Orsimer tập hợp lại, xây dựng một đường biên giới trong khả năng của mình để bảo vệ sự phát triển cho dân tộc của họ. Rất nhiều người trong số những chiến binh ấy cho đến bây giờ vẫn còn được nhắc đến, tiêu biểu như là những chiến binh của Cursed Legion, Gromma-Trụi-Tóc, và cả Emmeg Gro-Kayra cao quý. Người chiến binh này chắc chắn đã có thể vươn lên, trở thành một huyền thoại trên khắp Tamriel, nếu như cậu không lọt vào tầm ngắm của vài vị Hoàng tử Daedric.
Emmeg Gro-Kayra là đứa con hoang của một thiếu nữ đã chết khi hạ sinh cậu. Cậu được nuôi dưỡng bởi người pháp sư trong bộ tộc của mình, bộ tộc Grilikamaug tọa lạc trên đỉnh núi nơi mà ngày nay được gọi là Đỉnh Normar. Ở cuối tuổi mười lăm, Emmeg đã tự tay rèn một bộ giáp vảy công phu, để hoàn thành nghi lễ trưởng thành trong bộ lạc của cậu. Vào một ngày náo nhiệt, chiếc đinh tán cuối cùng của chiếc giáp đã được đập, chiếc áo choàng nặng nề được phủ trên bộ giáp cồng kềnh, Emmet từ biệt ngôi làng của mình lần cuối. Những câu chuyện về chiến công của cậu luôn được nghe ngóng ở nhà, cho dù là tin về việc cậu bảo vệ các lữ đoàn buôn bán khỏi những tên cướp hay là những cuộc giải phóng nô lệ. Những tin tức về chàng lính thập tự chinh cao quý người Orc bắt đầu được truyền đi ngay cả từ miệng của những người Breton, và thường thì chúng có mang chút âm điệu lo sợ.
Chưa đầy hai năm kể từ khi bước ra thế giới, trong khi Gro-Kayra đang cắm trại thì một giọng nói thánh thót bỗng vang lên từ màn đêm dày đặc. Cậu không ngờ rằng mình lại được nghe thứ ngôn ngữ của dân tộc mình được nói lên với chất giọng chắc chắn không phải là của người Orc.
“Hỡi Kayra Cao quý”, giọng nói cất lên, “những câu chuyện về cậu đã được nhiều người kể lại và đến được tai tôi”. Ngước ra phía màn đêm, Emmerg nhìn thấy hình bóng của một người mặc áo choàng, hình ảnh uốn cong và gợn sóng bởi ánh lửa trại. Dựa vào giọng nói thì cậu nghĩ rằng đấy là một mụ già, nhưng rồi cậu đột ngột biết rằng đấy là một người đàn ông có dáng người gầy gò và cao lêu nghêu, mặc dù cậu không thể nhìn rõ hơn được.
“Có lẽ là thế” chàng trai người Orc bắt đầu cảnh giác, “nhưng tôi không tìm kiếm vinh quang. Thế ông là ai?”
Phớt lờ câu hỏi, người lạ mặt vẫn tiếp tục nói, “Mặc dù vậy, cậu trai Orsimer ạ, vinh quang vẫn tìm đến cậu, và tôi mang đến một món quà xứng đáng với nó”. Áo choàng của vị khách mở ra một chút, không để lộ gì ngoài những chiếc khuy áo lấp lánh dưới ánh trăng mờ nhạt, và một bọc vải được đem ra và ném sang một bên lửa trại, nằm giữa hai người. Emmeg thận trọng gỡ lớp vải bao quanh thứ bên trong, và cậu đã bất ngờ khi thấy một lưỡi kiếm lớn và cong với phần chuôi được trang trí công phu. Thứ vũ khí thực sự nặng, và Emmeg nhận ra khi vung thử thanh kiếm rằng phần chuôi kiếm được trang trí công phu là để cân bằng trọng lượng đáng kể của lưỡi kiếm. Chàng trai người Orc nghĩ rằng với tình trạng hiện tại của thanh kiếm thì nó không quá nổi bật, nhưng sau khi được đánh bóng và gắn lại một vài viên ngọc bị mất thì nó thực sự sẽ xứng đáng với một chiến binh tài năng hơn mình mười lần.
“Tên của 'cô ấy' là Neb-Crescen” vị khách gầy gò nói, nhận thấy sự cảm kích từ khuôn mặt của Gro-Kayra. “Tôi đã đổi một con ngựa và một bí mật tại một xứ sở ấm áp để sở hữu nó, nhưng tôi đã quá già để có thể sử dụng một thứ vũ khí như vậy. Do đó nên tôi cảm thấy sẽ hợp lý hơn khi mà tôi truyền nó cho một người như cậu. Sở hữu ‘cô ấy’ sẽ thay đổi cuộc đời cậu mãi mãi”. Sau khi cậu ngừng mê mẩn những đường cong sắt bén của thanh kiếm. Emmeg quay về phía vị khách.
“Những lời mà ông nói ra rất hay đấy, ông cụ ạ” Emmeg lên tiếng, không che giấu sự nghi ngờ của mình, “nhưng tôi không phải là một tên ngốc. Ông đã đổi một thứ quý giá để lấy nó một lần, và tối nay ông lại đem nó đi trao đổi một lần nữa. Thế ông muốn thứ gì?” Người lạ mặt nhún vao, và Emmeg mừng vì đã khám phá ra mục đích thực sự cho cuộc viếng thăm vào hoàng hôn này. Cậu ngồi với ông cụ một lúc, cuối cùng thì đã cho một lượng lớn lông thú, thức ăn ấm và một ít tiền để đổi lấy thứ vũ khí kỳ lạ này. Và ông lão lạ mặt đó đã biến mất vào sáng ngày hôm sau.
Sau một tuần kể từ cuộc gặp giữa Emmeg và người đàn ông lạ mặt, Neb-Crescen vẫn chưa được rút ra khỏi bao kiếm của nó. Cậu chưa chạm trán một kẻ thù nào trong rừng, và bữa ăn của cậu bao gồm gà và thú nhỏ săn được bằng cung tên. Cậu tận hưởng sự yên bình, nhưng vào buổi sáng ngày thứ bảy, khi sương mù vẫn len lỏi giữa những cành cây thấp, Emmeg bỗng nghe thấy tiếng xào xạc của bước chân trong tuyết và những bụi rậm.
Emmeg liền bắt đầu đánh hơi, nhưng cậu ấy đang ở đầu gió. Không thể nhìn hay ngửi thấy kẻ lạ mặt, và biết rằng làn gió mang theo mùi hương của mình theo hướng đó, Emmeg trở nên đề phòng, và cậu thận trọng rút Neb-Crescen ra khỏi vỏ. Bản thân Emmeg không chắc chắn rằng điều gì đã xảy ra sau đấy.
Ký ức đầu tiên mà Emmeg Gro-Kayra nhận thức được ngay sau khi Neb-Crescen được rút ra là hình ảnh một lưỡi kiếm cong đang vụt chém khoảng không trước mặt cậu ấy, máu vương vãi lên lớp tuyết trắng phủ trên nền đất. Ký ức thứ hai là cảm giác khát máu len lỏi trong tâm trí cậu, nhưng rồi đúng lúc đấy cậu lần đầu tiên nhìn thấy nạn nhân của mình, một phụ nữ người Orc có lẽ trẻ hơn cậu vài tuổi, cơ thể của cô là một bức tranh với những nét vẽ là những vết chém ghê rợn, đủ để giết một người đàn ông chết đến tận mười lần.
Cảm giác ghê tởm của Emmeg lấn át sự điên cuồng đang chiếm lấy cậu, và với tất cả ý chí của mình, cậu ném Neb-Crescen đi và để thanh kiếm bay mất. Phát ra một âm thanh chói tai, thanh kiếm lướt qua không trung và rơi xuống, bị chôn vùi dưới tuyết. Emmeg chạy trốn trong sự xấu hổ và nỗi kinh hoàng, cậu đội chiếc mũ trùm đầu lên để che giấu bản thân khỏi ánh mắt phán xét của mặt trời đang mọc.
Cảnh tượng Emmeg Gro-Kayra giết chính đồng loại của mình quả là rùng rợn. Từ phần cổ nạn nhân trở xuống, cơ thể đã bị phanh ra và bị chém nát, gần như không thể nhận ra được, còn phần mặt không bị đụng đến thì bộc lộ cảm giác sợ hãi tột độ.
Tại đây, Sheogorath đã thực hiện nghi thức triệu hồi Malacath và hai vị Chúa tể Daedric cùng phán xét trước xác chết bị biến dạng này.
“Tại sao ngươi lại cho ta xem thứ này, hỡi Kẻ Điên loạn?” Malacath cất tiếng, sau khi cơn giận dữ không nói thành lời của ông đã dịu đi. “Ông cảm thấy vui mừng khi được chứng kiến ta than khóc cho một đứa con đã bị sát hại à?” Giọng nói của vị thần bảo trợ của tộc Orsimer trầm xuống và run rẩy, trong khi nhìn người kia với ánh mắt buộc tội.
“Con bé thuộc về ông, xét theo huyết thống, hỡi người anh em bị ruồng bỏ ạ,” Sheogorath trả lời, với vẻ mặt và cử chỉ nghiêm trang. “Nhưng nó cũng là con gái của ta, xét theo bản chất, sự tiếc thương của ta không hề kém ông và ta cũng tức giận như ông mà thôi.”
“Ta không chắc chắn về điều đó,” Malacath giận dữ, “nhưng ta chắc chắn rằng ta sẽ là người báo thù cho nó. Ta muốn ông để yên cho ta xử lý chuyện này. Hãy bước sang một bên.” Chúa tể Sheogorath lên tiếng khi bị Vị thần đáng sợ kia đẩy sang một bên.
“Ta không có ý định xen vào việc báo thù của ông. Thật ra thì, ta đang muốn giúp ông. Ta có người hầu ở khắp nơi hoang dã này, và ta có thể cho ông biết vị trí kẻ thù chung của chúng ta. Ta chỉ yêu cầu ông sử dụng vũ khí của ta. Hãy đả thương kẻ tội đồ đấy bằng thanh kiếm này, và trục xuất hắn vào thế giới của ta, vào nơi mà ta có thể tùy ý trừng phạt hắn. Quyền hành quyết danh dự ở thế giới này thuộc về ông”.
Với thỏa thuận đấy, Malacath đã đồng ý, ông nhận lấy thanh kiếm của Sheogorath và biến mất.
Malacath hiện hình trước mặt tên sát nhân, một gã mặc áo choàng bị che khuất bởi đám mây bão tuyết. Gầm thét lên một câu nguyền rủa đáng sợ đến mức cây cối xung quanh bị khô héo đi, Malacath rút kiếm ra và lướt tới còn nhanh hơn cả một con cáo rừng. Nổi cơn thịnh nộ, ông ta vung kiếm theo một đường cong, chém mượt đầu của kẻ thù, sau đấy cắm ngập thanh kiếm đến tận chuôi vào ngực hắn, bóp nghẹt dòng máu đang phun trào thành một dòng suối đỏ chảy từ từ phía bên dưới lớp giáp vảy và chiếc áo choàng nặng nề.
Thở hổn hển sau cú kết liễu nhanh chóng và đầy cuồng nộ của mình, Malacath quỳ trên một gối trong khi cái xác trước mặt mình ngã về phía sau và cái đầu rơi xuống một tảng đá rộng, bằng phẳng. Âm thanh tiếp theo đã phá vỡ sự im lặng như một tiếng sấm.
“Con - Con xin lỗi…” giọng nói Emmeg Gro-Kayra cất lên, đôi mắt của Malacath mở to khi ông nhìn kỹ vào cái đầu bị chặt đứt, thấm đẫm máu từ vết cắt, nhưng bằng một cách nào đấy nó vẫn còn sống. Đôi mắt của nó đảo quanh điên cuồng, cố gắng tập trung vào nhìn Malacath trước mặt nó. Đôi mắt đầy tự hào của một chiến binh giờ đây nghẹn ngào với những giọt nước mắt u buồn, đau đớn và bối rối khi nhận ra sự thật.
Malacath giờ mới bàng hoàng nhận ra rằng người mà mình vừa giết không chỉ là một trong những đứa trẻ Orsimer của mình, mà còn là đứa con mà ông đã ban phước cho một thiếu nữ người Orc nhiều năm trước. Trong những phút giây đau đớn ấy, cả hai nhìn nhau, đều bất ngờ và tuyệt vọng.
Sau đấy, im lặng như thép tra dầu, Sheogorath sải bước tới khoảng rừng thưa. Ông ta nắm cái đầu vừa bị chặt của Emmeg Gro-Kayra lên, bỏ vào một cái bao xám nhỏ. Sau đó, Sheogorath nhẹ nhàng lấy lại thanh kiếm Neb-Crescen từ cái xác và quay đi. Malacath chuẩn bị đứng lên, nhưng quỳ xuống lại, biết rằng mình đã vĩnh viễn đày đọa người con của chính mình đến thế giới của Sheogorath, và khóc thương cho sự thất bại của bản thân trong khi ông nghe tiếng cầu xin khàn cổ của đứa con trai đang tắt dần về phía chân trời băng giá.
Cuốn sách được dịch bởi Steam Gaben thuộc group Skyrim VN.
Vui lòng không sao chép, reup ngoài phạm vi fanpage và group Skyrim VN.