Cần hỗ trợ? Hãy trò chuyện với shop nhé!
Trong Viện bảo tàng Thủ đô của New York có một bức tranh do Veronese vẽ một cậu bé trai với một con chó săn thỏ. Chiếc quần ống túm của cậu bé có một màu xanh lá cây kỳ lạ, không thể tin được, một màu xanh đến khó chịu vì nó đã thường như thế. Bức tranh tự nó đã là một mảng tranh lộng lẫy. Tuy thế mà nó lại là một bức chân dung, được vẽ bởi một họa sĩ muốn làm hài lòng khách hàng, ông ta được đặt hàng, ngồi đó, và vẽ nguyên si người làm mẫu - chính một bức tranh như vậy đã cẩn nhiều công việc nghệ thuật lớn nhất của thời trước. Ngày nay, chúng ta có nhiều họa sĩ giỏi hơn đến mức chúng ta không biết phải làm gì với họ, song lại có ít bức chân dung trong thời đại của chúng ta là những công việc nghệ thuật. Có một số ít là có kỹ thuật tàm tạm. Và có lẽ sẽ thú vị khi điều tra xem tại sao nghệ thuật vẽ chân dung ngày nay lại xuống dốc so với trước đây, chúng ta sẽ xem xét vấn đề này từ quan điểm, kỹ thuật và chủ đề chuyên môn của người họa sĩ.
Chủ đề của những họa sĩ La Mã phương Đông là Thượng đế, các luật lệ và công việc của Người. Chủ đề của những họa sĩ sau này là con người. Những họa sĩ thời phục hưng, thực ra, đã thường bối rối vì những hạn chế của một đối tượng cứ ép họ vẽ chân dung sao cho trở thành những nhân vật có vai vế cao quý như để thuyết phục con người. Nhưng người họa sĩ biết rõ con người. Sự đa dạng, phẩm giả và sự cao quý của con người đã khiến cho đôi mắt của anh ta không thể cưỡng lại được, và những bức tranh của anh ta từ thời phục hưng trở về sau đã được nhồi nhét đủ loại hình thức có thể có của loài người - như các vị thần tà giáo, các giáo sĩ, những chiến binh, những thiên thần, gái điểm, vua chúa, hoàng tử, mệnh phụ phu nhân, kẻ ăn xin, thánh thần và trẻ em - được vẽ với mọi hình thức có thể có của câu chuyện, kinh nghiệm và sự phóng đại. Tuy nhiên, đối tượng của các họa sĩ chính là những diễn viên, chứ không phải là cảnh mà họ xuất hiện. Các bức tranh thật lớn. Các dụng cụ của họa sĩ thì cồng kềnh. Anh ta làm việc chủ yếu là trong nhà. Những cảnh phong cảnh và các vật thể kiến trúc trong các bức tranh được thực hiện, đối với hầu hết các phần, sau khi phác họa hoặc từ trí nhớ, và chỉ có một tầm quan trọng thứ yếu. Đối với các sáng tác đặc biệt phức tạp, những họa sĩ đôi khi sẽ vẽ những mẫu nhỏ của phong cảnh và vật kiến trúc mà họ sẽ vẽ - thu nhỏ toàn bộ sân khấu, đèn sân khấu và người là những hình nhân bằng sáp nhỏ - để sự rực rỡ và cách bố trí bóng và không gian, sức thuyết phục trong phối cảnh của bức tranh có thể được thực hiện phù hợp. Nhưng ngay cả trong những bức tranh như vậy thì đối tượng của người họa sĩ vẫn là con người. Phong cảnh và vật kiến trúc ở đó chỉ để giải thích nơi họ sinh sống, và tĩnh vật để chỉ ra những gì họ thường dùng và thường mặc.
Với đối tượng như vậy, vấn đề đơn giản nhất của người họa sĩ là vẽ một người đơn độc. Một bức tranh chân dung là một công việc dễ dàng nhất mà người họa sĩ có thể được đòi hỏi thực hiện. Và, không như ngày nay, vẽ chân dùng vẫn là một nhánh đáng kính trọng của nghề vẽ. Ngày nay, những họa sĩ vẽ chân dung chuyên nghiệp lại ít được coi trọng. Tranh chân dung đã trở thành một nhánh của hội họa thương mại, như thuật kiến trúc phong cảnh hoặc trang trí nội thất, trong đó sự thành công tùy thuộc nhiều vào những mối quan hệ phong phú và những năng lực xã hội hơn bất kỳ tài năng hội họa đặc biệt nào khác. Nhưng tranh chân dung của người họa sĩ vào thời đó không bị xem thường. Ghi lại nét riêng của mỗi người là cái mà người ta mong đợi ở người họa sĩ. Vì sự đa dạng của con người là một đề tài thiên nhiên của hội họa, nên bất kỳ người nào của bất kỳ tính cách nào đi nữa cũng có thể được khắc họa và bất cứ ai cũng có thể được vẽ chân dung của mình. Mỗi một đại gia đình có một phòng tranh cá nhân dành cho những bức hình chân dung để giảng giải về tầm quan trọng của gia tộc, và tiện thể, khắc họa tính cách của mỗi người. Ví dụ một phòng tranh có nhiều bức tranh chân dung về trẻ em thì đó là dấu hiệu của một gia đình mà những người phụ nữ trong đó có thói quen chỉ huy. Một người mẹ luôn luôn là người tự hào nhất về những đứa con của mình khi chúng vẫn còn trẻ, xinh đẹp và lệ thuộc. Và với cách này, nếu bà ta có thể làm được, bà ta sẽ làm cho người ta phải nhớ đến chúng. Cũng vậy, một phòng tranh với những bức chấn dung của những người trưởng thành và lớn tuổi là dấu hiệu của một gia đình giàu tham vọng ý thức được tầm quan trọng lịch sử trong tầng lớp của mình. Một thành viên của một gia định như vậy sẽ chờ để được vẽ - vì những bức chân dung rất tốn kém, và phải chăm chỉ ngồi làm mẫu - cho đến khi anh ta làm được một điều gì đó đáng để ghi lại - dĩ nhiên, trừ khi anh ta thừa kế cả một ngai vàng - hoặc tối thiểu cho đến khi anh ta đủ già để phô trương tính cách và triển vọng của anh ta. Người làm mẫu không cần phải quyến rũ mà cần phải làm cho người khác e sợ. Ngày nay chúng ta thường ngạc nhiên bởi tính cách hung bạo và không xu nịnh mà các họa sĩ thế kỷ 15, 16, và 17 đã được phép thể hiện ngay cả đối với những vị hoàng tử uy quyền nhất.
Không thể đếm hết tất cả những bức chân dung đã được vẽ. Những vị vua cho vẽ những bức chân dung của mình để cho thần dân của họ biết được dung nhan của họ. Vô số những bức chân dung, tất cả được sao chép từ bức này sang bức kia như những bức tranh của vua Philip IV của Tây Ban Nha do Velasquez vẽ, đã cho ta thấy sự trang trí và sự lộng lẫy của các cung điện hoàng gia, và đã được trao tặng như là những dấu hiệu của tình bằng hữu và là ân sủng cho những nhà quý tộc và cho những ngôi nhà hoàng gia khác. Hình chân dung của các công chúa và hoàng tử đến độ tuổi kết hôn được trao đổi như là một sự mở đầu cho một cuộc đính ước (như bức chân dung của Mlle. Omorphi trên hộp đựng thuốc lá Casanova đã tiến cử cô ta với vua Louis XV trong một sự sắp xếp kém trịnh trọng). Những người thân gửi ảnh chân dung của mình đến những người thân khác cũng như ngày nay chúng ta gửi tặng hình chụp vậy và những phòng tranh chân dung cá nhân nhằm mục đích giữ gìn lịch sử gia tộc và để cho khách khứa thưởng thức cũng giống y như cuốn album các hình chụp theo phép dage vào thời Victo- rian. Nếu có ai nhớ rằng các thợ chụp hình chân dung ngày nay bận rộn như thế nào, thì chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy số lượng những bức tranh chân dung nhiều không kể xiết mà các họa sĩ đã vẽ vào thời trước. Vì vậy, trước khi phát minh ra máy chụp hình, vẽ chân dung là một công việc mà mỗi họa sĩ đều phải làm được.
Nhưng, mặc dù vẽ chân dung vào thời trước luôn luôn thông dụng, chúng ta cũng không tin các họa sĩ thấy rằng nó dễ dàng. Khi những bức tranh khác được vẽ, nếu không phải là riêng tư thì tối thiểu cũng giữ kín trong đầu. Chỉ khi nào công việc được hoàn tất thì nó mới được đem ra trước công chúng để mọi người nhận xét. Nhưng vẽ chân dung hẳn phải được làm trước công chúng. Đó là sự trình diễn công khai của người họa sĩ. Ở đây, giống như một người ca sĩ trước khán giả hoặc một diễn viên trên sàn diễn, người họa sĩ có ngay một sự trả lời từ phía công chúng đối với bức tranh mà anh ta đã vẽ. Anh ta phải đối phó với ý chí cũng như với người ngồi làm mẫu cho mình. Bất kỳ loại tranh vẽ nào cũng có cái khó : để cho khách hàng, cũng chính là người phê bình khó tính nhất của anh ta, lại là đề tài cho bức tranh lại càng khó hơn nữa. Kết quả, bức chân dung là sự tập trung tinh thần cao nhất và xác xuất nhận được sự thành công lại là thấp nhất trong số những công việc mà người họa sĩ có thể thực hiện. Anh ta không chỉ phải vẽ người làm mẫu, mà anh ta còn phải thuyết phục người đó nữa. Và đồng thời anh ta cũng phải tiếp đón người mẫu đó.
Trước đây điều này dễ dàng hơn. Phòng vẽ của họa sĩ là nơi gặp gỡ chung. Những họa sĩ không cảm thấy phiền khi làm việc trước một khán giả. Khi người họa sĩ vẽ, những người bạn và những người khách có thể giúp họa sĩ làm cho người làm mẫu thấy tỉnh táo và được tiếp đãi. Thực ra, điều này thực sự còn tồn tại cho đến thời gian rất gần sau này, như đối với bức tranh do Fantin-Latour vẽ, gọi là Un Atelier aux Batignolles, của phòng vẽ Manet, trong đó có một người họa sĩ, trong bộ đồ xã giao của mình, được vẽ trong lúc chính ông đang vẽ một bức chân dung khác, bao quanh và không quấy rầy ông ta là một nhóm những họa sĩ và những người có học thức nổi tiếng nhất vào thời đó. Nhưng các họa sĩ của thời đại chúng ta không có những sự giúp đỡ như vậy. Anh ta phải tự mình tiếp đãi người mẫu của mình. Vì anh ta đã trở nên quen làm việc trong sự kín đảo biệt lập trong góc phòng của nhà phân tích, và với gánh nặng được thêm vào của một bệnh nhân vào mọi thời gian rảnh là đi hỏi ý kiến bác sĩ.
Với một ít sự tập luyện và kiên nhẫn, tất cả những điều này đều có thể đối phó được. Các họa sĩ mau chóng học được cách trò chuyện huyền thuyền một cách tự động ngay cả khi làm việc căng thẳng nhất. Một số họa sĩ thậm chí đã trở nên thích thú chuyện này. Khó khăn thực sự không phải là đây. Khó khăn là cái gì đó gắn liền với chính bức chân dung. Vì chân dung không giống với bất kỳ loại tranh nào khác. Nó không phải là sự miêu tả đơn giản người làm mẫu, cũng không phải là động tác đơn giản vẽ một con người, tuy nhiên nó có thể được vẽ đẹp, tạo ra một cách tất yếu một bức tranh chân dung của anh ta. Thực tế, tranh chân dung có vẻ như tuỳ thuộc rất ít vào sự cẩn thận hoặc chính xác và thậm chí những họa sĩ chưa được rèn luyện cũng có thể thường xuyên tạo ra những sự giống nhau đáng kinh ngạc. Một bức chân dung có thể được vẽ đẹp hay xấu và vẫn thành công. Nhưng nếu nó không thể hiện được sự giống nhau đáng thuyết phục của người mẫu, thì nó không phải là một bức tranh thành công. Nói như vậy một bức tranh chân dung giống như một bức biếm họa - là bức tranh mà vấn đề đề tài độc nhất của nó chính là một sự giống nhau. Sự giống nhau này dưới bất kỳ khía cạnh nào cũng không phải là hình ảnh hoàn toàn của một người. Như tranh biếm họa, điều này đạt được bởi việc ngắm kỹ một người từ một quan điểm đặc biệt. Để đạt được điều đó, một tình trạng khác thường của sự đồng cảm với một bản chất bí ẩn và gần như là kỳ diệu phải được tạo ra và duy trì giữa người họa sĩ và người mẫu. Làm thế nào để làm được như vậy thì ngay cả họa sĩ giàu kinh nghiệm nhất cũng chưa chắc đã hiểu. Với một số người mẫu, tình trạng này đến dễ dàng. Với một số người khác thì có thể chẳng tạo ra được tình trạng này một chút nào. Có khi nó tồn tại ở đó, và sau đó, vì một lý do không rõ ràng, nó sẽ biến mất, không bao giờ quay trở lại. Nếu nó tồn tại và liên tục tồn tại, bức chân dung sẽ trông giống như người làm mẫu cho dù nó được vẽ đẹp hay xấu. Nếu tình trạng đồng cảm này không thể được gợi lên, thì bức chân dung, cho dù người họa sĩ tài năng đến đâu đi nữa, cũng sẽ không giống với người mẫu.
Tình trạng đồng cảm này, sự gần gũi về mặt tâm lý này, là cải tạo ra sự khác nhau giữa một bức tranh chân dung và bất kỳ loại tranh vẽ nào khác, tùy thuộc trực tiếp vào khoảng cách vật lý thực tế - khoảng cách tính bằng mét và centimét - giữa người họa sĩ và người làm mẫu của anh ta. Và một bức tranh chân dung có thể được định nghĩa như một bức tranh được vẽ ở một khoảng cách từ 2-3 mét từ họa sĩ đến người ngồi làm mẫu. Một bức tranh được vẽ từ khoảng cách gần hơn hoặc xa hơn thường là một sự giống nhau dễ nhận thấy. Tuy nhiên có thể hiếm khi gọi đúng tên một bức tranh chân dung. Phẩm chất đặc trưng của một tranh chân dung là một dạng liên lạc khác thường gần như là một cuộc trò chuyện, mà người ngắm tranh có thể thấu hiểu được người được vẽ trong đó. Điều này tùy thuộc vào cái được miêu tả trên vải vào cùng lúc với tâm hồn của người làm mẫu - hoặc cái cách anh ta tự cảm nhận về mình - và tính cách của anh ta - hoặc vai trò của anh ta ở thế giới bên ngoài. Thật là quá khó khăn đối với họa sĩ để thiết lập nên tính hai mặt như vậy nếu anh ta làm việc gần với người làm mẫu gần hơn 1,5m, hoặc xa hơn 3 hoặc 4 mét.
Điều này không lạ chút nào cũng giống như lần đầu tiên nó xuất hiện vậy. Một người làm mẫu, dù là bất kỳ ai, cũng có 3 khía cạnh có thể có, tất cả đều khác nhau hoàn toàn. Khía cạnh nào trong 3 khía cạnh đó sẽ được người đó thể hiện ra đối với chúng ta là tùy thuộc trực tiếp vào khoảng cách mà chúng ta đứng nhìn người đó. Đơn vị đo khoảng cách này là đơn vị tự nhiên mà chúng ta sử dụng để đo đạc thế giới bên ngoài - chiều cao của thân thể chính chúng ta.
Ở khoảng cách xa hơn 4,5m, nói cách khác, là xa gấp hai lần hơn chiều cao cơ thể của chính chúng ta, hình dạng con người có thể được nhìn thấy một cách nguyên vẹn như là một tổng thể đơn lẻ. Tại khoảng cách này chúng ta ở quá xa tầm nhìn nổi của chúng ta để thông tin cho chúng ta một hình khối ba chiều của nhân vật. Chủ yếu chúng ta nhận ra những đường nét bên ngoài và những tỉ lệ của nó. Ở khoảng cách này chúng ta có thể ngắm một người như thể anh ta là một tấm hình được cắt ra từ một tấm bìa, và nhìn anh ta một cách hờ hững như một thử có ít liên hệ với chúng ta. Vì nó chỉ là sự cô đặc và sự mở rộng theo chiều sâu nên chúng ta nhìn những vật thể ở gần sẽ gây cho chúng ta một cảm giác thông cảm và tương đồng với những vật mà chúng ta nhìn ngắm. Tại khoảng cách xa gấp hai lần chiều cao, tất cả các hình thể đều có thể được nhìn thấy ngay. Chỉ cần liếc qua là có thể nắm được ngay. Nó có thể được hiểu như một đơn vị và một tổng thể. Ở khoảng cách này tư thế của nhân vật, vị trí của nó, thái độ nghiêm trang hoặc thiếu sót của nó, độ chịu lực hút của trái đất lên nó, mối liên hệ của nó đối với mặt phẳng mà nó đang đứng lên - nói tóm lại, là đặc tính của nó - tất cả những cái này hoàn toàn dễ hiểu. Ở khoảng cách này, bất cứ ý nghĩa hoặc cảm xúc nào mà nhân vật có thể truyền đạt đều bị chế ngự, không phải bởi những biểu lộ qua nét mặt, mà bởi vì vị trí của các bộ phận thân thể. Ở khoảng cách này người họa sĩ có thể ngắm người mẫu của anh ta như thể đó là một cái cây trong phong cảnh, hoặc một trái táo tĩnh vật mà, bởi một vài ngẫu nhiên không quan trọng, tình cờ sống động. Nhiệt tình riêng của người làm mẫu không xáo trộn. Người họa sĩ có thể nhìn người mẫu của mình mà không có bất kỳ sự dính líu cá nhân nào, và có thể đưa anh ta lên tranh của mình một cách khách quan đến mức người họa sĩ mong muốn. Chính từ khoảng cách này việc vẽ hình minh họa đã được thực hiện và những người mẫu của họa sĩ vẽ tranh tường đã được vẽ và họa lại.
Michelangelo và những người nhái tranh của ông, dĩ nhiên, không tuân theo quy luật này. Những nhân vật của họ được vẽ như thể người làm mẫu ở trong khoảng tầm tay với của người họa sĩ. Nhưng những bức tranh tường này tại nhà thờ Sistine và vô số những trần nhà của Vasari, của trường phái của ông và những người bạn của ông, nghiêm túc mà nói đã không được vẽ theo kiểu tranh tường chút nào, vì chúng không có nền. Nền của chúng được vẽ trên những gờ tường và hốc tường, hoặc những đám mây và những vòng hoa đại khái nhất. Vẽ tranh tường thực sự, như bức “Birth of the Virgin (Sự ra đời của Thần vệ nữ)" của Ghirlandaio hoặc “Procession of the Magi (Đám rước của những thầy pháp)” của Gozzoli, là phải có chiều sâu. Nó có không gian cho những nhân vật của nó để tồn tại và những nền phông phía sau những nhân vật đó. Những nhân vật không nằm sõng soài trên mặt phẳng của bức tường như một tác phẩm chạm nổi thấp. Chúng được đẩy lùi một cách khéo léo vào sâu trong không gian, bức tranh dường như chứa đựng không ; gian đó. Để đạt được điều này người họa sĩ phải vẽ những nhân vật của mình như thể anh ta đang đứng ở một khoảng cách tối thiểu là gấp hai lần chiều cao của những nhân vật đó.
Nhưng 1.5m đến 3m là khoảng cách của tranh chân dung. Ở khoảng cách này người họa sĩ đủ gần để mắt của anh ta không gặp khó khăn trong việc nắm bắt những hình dáng ba chiều của người mẫu, đồng thời anh ta lại ở đủ xa để không gặp vấn đề trong việc vẽ rút gọn theo tỉ lệ những hình dạng thể hiện nên người mẫu. Ở đây, tại khoảng cách bình thường của sự thân tình trong giao tiếp và những cuộc trò chuyện thoải mái, linh hồn người làm mẫu bắt đầu xuất hiện. Vì nó là linh hồn, hay đúng hơn là một sự cân bằng chính xác của tâm hồn và tính cách, là những cái hình thành nên chủ thể của tranh chân dung, đây hẳn là khoảng cách từ đó bức chân dung đã được vẽ. Gần hơn 1m, trong tầm với, linh hồn rõ ràng là ở quá xa đối với bất kỳ dạng sự quan sát hờ hững nào. Hơn 1m là khoảng cách làm việc của nhà điêu khắc, chứ không phải của một họa sĩ. Nhà điêu khắc phải đứng đủ gần hình mẫu của anh ta để có thể xét đoán những hình dạng qua . Ngoài ra, nhà điêu khắc không phải đối phó với vấn đề luật xa gần (phối cảnh). Những bức tượng của anh ta không có phông nền, và anh ta không gặp khó khăn của người họa sĩ là tạo nên một trọng lượng và tầm quan trọng bình đẳng cho những vật thể ở gần và ở xa. Chỉ khi người họa sĩ vẽ tranh tĩnh vật anh ta mới có thể làm việc gần với mẫu như nhà điều khắc. Vậy thì, bằng việc giới hạn chiều sâu trong bức tranh, và bằng việc mang phông nền vào phía sau những vật thể tĩnh của mình, anh ta có thể vẽ phông nền như những vật thể khác trong tranh, và bỏ qua luật xa gần. Bằng phương cách này, người họa sĩ thỉnh thoảng có thể xem vật thể tĩnh của anh ta như thể chúng là những mẫu vật để điêu khắc và vẽ chúng từ khoảng cách trong tầm với. Nhưng với con người anh ta không thể xem như vậy được. Ở khoảng cách trong tầm với, những vấn đề của việc vẽ rút gọn theo tỉ lệ tự nó sẽ làm cho công việc vẽ trở nên quá khó. Ở khoảng cách trong tầm với, người họa sĩ phải xử lý những sự méo mó do mắt anh ta quá gần người làm mẫu; và vấn đề gần như không thể giải quyết được của việc vẽ miêu tả với chi tiết, tính chính xác và sức thuyết phục ngang nhau, sự cận cảnh, hình dạng ba chiều và phông nền bằng phẳng hơn, xa hơn. Hơn nữa, ở khoảng cách trong tầm với, tính cách của người làm mẫu quá mạnh. Ảnh hưởng của người làm mẫu lên họa sĩ quá mạnh mẽ, quả quấy rầy tình trạng cô lập cần thiết của người họa sĩ, khoảng cách trong tầm với không phải là vị trí của sự biểu đạt bằng thị giác, mà là của sự phản ứng vận động, của một số biểu hiện tình cảm tự nhiên, như những cú đấm, hoặc những hành động khác nhau của tình yêu.
Nếu khoảng cách từ chỗ người mẫu đến họa sĩ là quan trọng đối với người họa sĩ, thì kích thước mà anh ta vẽ người mẫu cũng quan trọng như vậy. Bất cứ thứ gì chúng ta thấy trong tự nhiên chúng lớn hoặc nhỏ là do khoảng cách của nó. Nhưng vì chúng ta nhìn bằng hai mắt, nên chúng ta có thể ước lượng được khoảng cách này, và điều chỉnh cho đúng cảm giác của chúng ta về vật thể bằng ước lượng; và vì vậy chúng ta đi đến nắm bắt được những kích cỡ thực sự của vật thể. Kích thước của bất kỳ một vật thể là cái đầu tiên chúng ta bắt buộc phải biết. Tuỳ thuộc vào kích cỡ của nó chúng ta biết phải xem xét vật thể như thế nào, hoặc nó có thể đối xử với chúng ta ra sao. Bất kỳ vật thể nào được sử dụng bằng tay, hoặc có thể hiểu được bằng trí óc, hoặc thấu hiểu được bằng cảm xúc, thì trước tiên phải được xo sánh với một đơn vị đo đạc tự nhiên cơ bản của chúng ta - kích thước của chính một con người. Bất kỳ cái gì quá lớn hoặc quá nhỏ đều có thể đo được bằng đơn vị đó, như khoảng cách từ sao Thiên lang đến Mặt trời, hoặc kích thước của một phân tử, không thể thấu hiểu một cách trực tiếp; để hiểu tất cả, trước tiên nó phải được chuyển đổi như dịch từ một ngôn ngữ khác. Thực tế, sự chuyển đổi này là không thể thực hiện. Năm ánh sáng và micromet đều là những sự giải thích mang tính lôgic, và có thể được tính ra ngay tức khắc một số từ một số khác bằng một phép nhân đơn giản. Cả hai đều không có cái gì chung với đơn vị dặm, là đơn vị có được từ một loại giải thích hoàn toàn khác, không có tính logic chút nào - chúng ta phải mất bao lâu để đi hết một dặm và chúng ta sẽ cảm thấy mệt như thế nào khi chúng ta đi như vậy. Sự chuyển đổi từ cái rất lớn hoặc cái cực nhỏ sang ngôn ngữ riêng của con người có thể được thực hiện bằng một cảm giác duy nhất - một sự sợ hãi chán ngán, buồn ngủ.
Trong phạm vi của con người, có một sự dễ hiểu và đa dạng không cùng. Chúng ta biết những vật cụ thể có những kích thước cụ thể. Nếu chúng ta thấy chúng lớn hơn hoặc nhỏ hơn, chúng ta cảm nhận được ngay sự khác nhau. Bất kỳ vật thể nào, một quả trứng hay một cái đầu, nếu được vẽ nhỏ hơn hoặc lớn hơn chúng ta quen nhìn chúng. thì sẽ cho ta một ý nghĩa mới và khác; nó tuỳ thuộc vào cách mà đôi mắt chúng ta được điều chinh thực tế để tập trung vào bức tranh, và cách mà đôi mắt chúng ta nên điều chỉnh để ngắm vật thể nếu nó ở một khoảng cách mà kích cỡ bất thường của nó thể hiện. Cũng có một sự sửng sốt khi nhìn một vật gì đó được vẽ lớn hơn hoặc nhỏ hơn kích cỡ mà chúng ta biết nó chỉ có thể đạt được đến mức đó.
Ngày nay chúng ta hơi có ý quên rằng những vật thể đó, như những bàn tay hoặc những con ngựa, chỉ có một kích cỡ đúng và bình thường là kích cỡ không thể thay đổi mà không làm thay đổi ý nghĩa của nó, vì chúng ta đã trở nên quen với việc nhìn những vật thể này được phóng to với những tỉ lệ to lớn bằng cách phóng chiếu trên màn ảnh. Chúng ta quên rằng cái mà chúng ta thấy chỉ là một hình ảnh chụp. Tự nó không phải là một vật thể, thậm chí cũng không phải là một hình vẽ của nó. Mặt phẳng của hình ảnh được vẽ theo quang học bởi những tia sáng, không cần sử dụng đôi tay, cọ vẽ hoặc những sự căng cơ. Không có điều gì hay trong hình ảnh mà chỉ rõ kính thước của nó. Nhưng nếu sự phóng to này, tấm hình được phóng to này, được vẽ trên màn ảnh bằng tay và sau đó được ngắm bằng ánh sáng thường, thì hình ảnh sẽ không còn có những kích thước mơ hồ của một tấm hình chụp. Hai mắt của chúng ta sẽ nói cho chúng ta biết một bức tranh to như thế nào và chúng ta ở cách xa tấm màn ảnh nó được vẽ lên bao nhiêu. Những cảm giác xúc giác của chúng ta sẽ thông báo cho chúng ta về những sự căng cơ được cảm nhận qua bàn tay vẽ nên bức tranh. Chúng ta ngay tức khắc sẽ cảm thấy sự khác nhau giữa kích thước của hình ảnh và kích thước mà chúng ta biết rằng chính vật thể có. Đây là điều sẽ xảy ra khi chúng ta ngắm bất kỳ bức tranh nào. Một nhân vật anh hùng - chẳng hạn, một trong những bà đồng cốt trong nhà thờ Sistine - cho dù được ngắm nhìn cách bao xa đi nữa thì cũng vẫn là một nhân vật anh hùng. Đôi mắt của chúng ta đạc tam giác (một phương đo khoảng cách) khoảng cách và làm những phép tính cần thiết. Lập tức chúng ta nhận biết bức tranh không chỉ lớn hơn bình thường bao nhiêu, mà còn lớn hơn chính chúng ta bao nhiêu.
Vấn đề kính cỡ này sinh ra một trong những sự kém hiệu quả không thể tránh khỏi của kiến thức ngày nay. Sinh viên của lịch sử hội họa quen với việc ngắm nhìn các bức tranh mà họ học như ngắm những bản in hoặc bản phim đèn chiếu - ở kích cỡ của một trang sách hay của một màn ảnh đèn chiếu - và kết quả là, tất cả đã bị sai lệch nhiều. Dĩ nhiên, không thể trình bày những bức tranh theo kích cỡ đứng của chúng khi sao chép màu sắc chính xác của chúng. Nhưng, kích cỡ của bức tranh, và cũng như kích cỡ của những vật thể trong đó, quan trọng về mặt phê bình khi quyết định phẩm chất, công dụng và hiệu quả của bức tranh.
Một bức tranh lớn phải có nhiều chi tiết hơn một bức tranh đơn giản do được phóng to từ một bức tranh nhỏ. Vì thế, đối với người họa sĩ, kích thước của bức tranh của anh ta là một sự quan tâm trước nhất, bởi vì kích thước bức tranh của anh ta quyết định khối lượng chi tiết sẽ cần phải có và kết quả kéo theo là lượng công việc cần cù mà người họa sĩ cần phải thực hiện. Người họa sĩ đứng cách giá vẽ không xa hơn 1m. Bức tranh hoàn tất phải trông thấy đẹp từ khoảng cách mà người họa sĩ đứng đó để vẽ. Vì vậy, một bức tranh nhỏ phóng to mà không thêm chi tiết vào để người ta có thể ngắm cận cảnh sẽ trở nên một bức tranh trống rỗng. Đây là một trong những nguyên nhân mà vẽ tranh tường thời đó hiếm khi vừa ý. Những bức tranh tường, trong đất nước này dù ở mức độ nào, nói chung đều được vẽ như những phác họa nhỏ, và như những bức phác họa nhỏ, được người mua chấp nhận. Được phóng to mà không thay đổi kích thước của bức tường, chúng cần phải thưa thớt và rất đơn giản. Khán giả ngay lập tức thấy rằng chúng chỉ là những bản phóng to bằng cách so sánh kích cỡ của chúng với sự nghèo nàn của các chi tiết.
Tất cả các họa sĩ từ Giotto và Michelangelo đến Pavel Tchelitchew va Georgia O’Keffe đều nhận biết những mối quan hệ mật thiết dễ xúc cảm của kích cỡ và thường xuyên đùa với điều này, kể cả trong phạm vi thay đổi tỉ lệ của các kích thước của cùng một bức tranh. Ví dụ, có một bức chân dung tự họa của Rembrandt trong bộ sưu tầm của Frick trong đó đầu và thân mình của họa sĩ cùng một kích cỡ trong khi tay trái, vươn tới trước, lại lớn hơn nhiều. Sự khác nhau trong kích thước của bàn tay từ phần còn lại của bức tranh đích thực là sự khác nhau mà một người đứng trong vòng 1.5m cách nhân vật trong bức tranh sẽ nhận thấy, và cho người xem một cảm giác lẫn lộn của người trong khoảng cách với tới được chóp mũi của Rembrandt.
Việc làm thông thường hơn của những họa sĩ hiệu quả là một sự thay đổi kích cỡ đơn giản - vẽ mọi thứ lớn hơn hoặc nhỏ hơn kích cỡ mà người ta mong tìm thấy chúng. Thực tế, đây là quy luật chung trong hội họa không phải để vẽ bất cứ thứ gì, đặc biệt không áp dụng cho khuôn mặt hoặc những vật ở gần, theo kích cỡ tầm thường khoảng 3/4 so với bình thường. Vấn đề của việc phóng to hoặc thu nhỏ từ một kích cỡ dễ, bình thường hoặc được mong đợi tăng thêm một khó khăn cho chính hành động vẽ mà người xem cảm thấy như là một sự hứng thú thêm vào - giống y như sự căng thẳng mà một ca sĩ có thể tạo ra bằng cách hát ở giọng cao hoặc bằng cách chơi một nhạc cụ ở một trình độ khác.
Một số họa sĩ trong thời đại chúng ta đã cố gắng, bằng sự phóng to vĩ đại, hoặc bằng cách vẽ rất gần người mẫu, để tạo ra một hiệu quả tương tự như cận cảnh trong phim mà đối với người họa sĩ, là một phát minh gây ấn tượng nhất của phim. Phim ảnh tự nó hơi yếu trong việc lôi cuốn cảm xúc. Những cảnh của nó không có sự liên tục tự nhiên. Những chân dung người trong đó chỉ là những tấm hình chụp và không có bề nổi, sự nhiệt tình, hoặc sức mạnh của sự xuất hiện của những diễn viên sống động di chuyển trên sức khấu. Những nhà sản xuất đã khám phá ra rằng nhạc nền, nếu nó đủ nhẹ nhàng để không là xao lãng sự tập trung của khán giả, sẽ liên kết những cảnh thất thường trong phim và, bằng sự phong phú hài hòa của nó, sẽ bù đắp phần nào cho sự nhiệt tình của con người mà những hình chụp các diễn viên này không thể tạo ra.; và rằng tác động mang tính cảm xúc của một cuộc sống, hiện tại, con người có thể được cung cấp từng phần bằng cách mang những đôi môi của các diễn viên một cách rõ ràng trong vòng 3 insơ của chính chúng ta. Hội họa không cần nhạc nền. Nó có sự xúc cảm mãnh liệt của chính nó và không cần thêm vào sự sôi nổi. Nhưng hầu hết mỗi một họa sĩ của thời đại ngày nay đều đã từng thí nghiệm với những hiệu quả của tính thân mật được tạo ra bởi một cái đầu cận cảnh.
Có lẽ, chính Christian Berard là người đầu tiên sử dụng phương pháp cận ảnh một cách có hệ thống trong hội họa. Ông đã triển lãm tại Paris năm 1927 một nhóm các bức tranh chân dung vượt quákích cỡ bình thường đã gây ngạc nhiên do cảm giác thân thiết của nó, và trong khi sự giống nhau rất rõ ràng, trên tranh lại có rất ít diện mạo bên ngoài cụ thể của những người làm mẫu. Cảm giác thân thiết và thiếu sự mô tả đặc điểm cụ thể là điều tự nhiên đối với loại tranh chân dung cận cảnh này. Cảm giác thân thiết tăng lên khi họa sĩ vẽ gần người làm mẫu hơn. Và khi sự mô tả đặc điểm được phóng lớn lên, đặc điểm bên ngoài của được nhìn ngắn ở khoảng cách quá gần, nó chỉ có thể trở thành một bức biếm họa, và vì lí do đó cần phải được tránh đi. Vì vậy, tranh chân dung cận cảnh, bằng cách rất ít mô tả đặc điểm trừ phong cách của chính họa sĩ, có thể vẽ chân dung không chỉ người làm mẫu, mà người họa sĩ cũng được phản ánh lên khuôn mặt của người làm mẫu, và để tạo ra một hiệu quả của cảm giác thân thiết, không chỉ với người làm mẫu mà còn với chính họa sĩ.
Vì thế, tuyệt vời như một số bức tranh này, chúng cũng có thể hiếm khi được gọi là những tranh chân dung thực sự. Chúng là những bức tranh của cái mà họa sĩ tự cảm thấy thấy thích ở người mẫu của anh ta, hơn là một sự thể hiện khách quan diện mạo thực sự của người mẫu. Hầu hết các bức tranh mà chúng ta thường nghĩ đến như là những tranh chân dung đều được vẽ từ khoảng cách bình thường 1.5m đến 3m - khi nào về toàn bộ người đang ngồi thì mới vẽ ở khoảng cách lớn hơn.
Những bức tranh chân dung toàn thân, như “Blue boy" của Gainsborough hoặc "Madam X" của Sargent, được vẽ theo một hệ thống hơi khác. Họa vĩ đặt giá vẽ lên một cái bục cùng với người mẫu và chính anh ta thì đứng cách xa trên 4m. Anh ta sẽ đi từ từ tới giã vẽ khi anh ta muốn đặt một nét vẽ, và vẽ với những cây cọ dài 1 hoặc 2m để giảm tối đa sự đi bộ của anh ta. Vì khi một nét vẽ được thực hiện, anh ta phải quay trở lại vị trí thuận lợi của mình trước khi quyết định nét vẽ kế tiếp. Đứng ở khoảng cách khá xa, người họa sĩ có thể xét đoán công việc của mình từ vị trí của một người xem sẽ đứng xem khi bức tranh hoàn tất. Cũng với ý nghĩa này, người họa sĩ có thể tránh được sự mãnh liệt và những sai sót rành rành theo luật phối cảnh - sự xuất hiện của một nền nhà bị nghiêng - do làm việc quá gần và với một góc nhìn quá rộng. Tuy nhiên tất cả điều này chỉ là để trình bày bức tranh. Khi vẽ thực sự đầu, tay, và những chi tiết khác trên trang phục thì được thực hiện ở khoảng cách quen thuộc từ 1.5m đến 3m.
Trong vòng khoảng cách vẽ thông thường này việc vẽ một bức tranh chân dung trở thành một cuộc kéo co đơn giản ai có sức mạnh hơn, họa sĩ hay người làm mẫu. (hay đúng hơn, chính xác hơn, là ai trong số hai người có mana lớn hơn, sử dụng từ mana như một nhà nhân loại học, là khái niệm của tổng quyền lực huyền bí của một người). Mana của người làm mẫu tùy thuộc vào sự giàu có, tuổi tác, vị trí xã hội, năng lực tiềm tàng, tư chất thông minh của anh ta, và sự ước đoán của chính anh ta về giá trị của mỗi một điều đó. Mana của họa sĩ tùy thuộc vào sự tự tin vào tài nghệ của chính anh ta, danh tiếng của anh ta trong thế giới hội họa chuyên nghiệp, vào tầm cỡ và tầm quan trọng xã hội của những khách hàng của anh ta. Nếu mana của họa sĩ mạnh hơn, anh ta sẽ không bị sự hiện diện của người mẫu quấy rầy, và người mẫu sẽ được ngắm từ bên ngoài. Trong trường hợp này bức chân dung sẽ là một bức tranh, không có linh hồn, nhưng có tính cách, và sẽ được vẽ đẹp như tài năng của họa sĩ có thể tạo ra. Nhưng vì người mẫu không bao giờ tự ngắm anh ta từ bên ngoài, nên có một mối nguy hiểm cho họa sĩ là khách hàng của anh ta sẽ không công nhận, hoặc thậm chí không nhận ra, tính nết mà họa sĩ quy cho người khách hàng đó. Ngược lại, nếu người làm mẫu mạnh hơn, người họa sĩ sẽ bị chi phối và bức chân dung sẽ trở thành một cái nhìn nội tâm người làm mẫu. Ở đây người họa sĩ buộc phải nhìn người mẫu qua cặp mắt của chính người mẫu và buộc phải vẽ tâm hồn của người mẫu - cái sinh lực nhẹ nhàng chỉ có người chủ của nó mới có thể thấy được nó mà thôi - hơn là vẽ tính cách của anh ta - dáng vẻ mà anh ta xuất hiện ở thế giới bên ngoài. Nói chung, những bức tranh vẽ tâm hồn là không vừa ý, kể cả khi đã được làm cho yếu đi, như những con chó của Lanseer hoặc “Hy vọng” của Watt. Cảm giác thân thiết quá mức chỉ có thể chịu đựng trong một thời gian ngắn và dưới những điều kiện đặc biệt. Khi người họa sĩ bị chi phối quá mức, anh ta sẽ mất đi sự tự do trong kỹ thuật, và tuy nhiên nhiều khả năng chính người mẫu có thể hài lòng với kết quả của bức vẽ, nên một bức vẽ như vậy có thể được vẽ không đẹp. Như là một sự mô tả tính cách, nó chắc chắn sẽ kém.
CHÂN DUNG SƠN DẦU CỦA STELLA HACKIE
CHÂN DUNG SƠN DẦU CỦA DUFLOS
HORATIO PHAT HIỆN CÁI ĐIÊN CỦA OPHELIA
NGƯỜI MẪU TRANH SƠN DẦU
CẢNG MOLO Ở VIÊN ANTONIO CANALETTO (1697 - 1768)
TÀU CHỞ THƯ LADY HOBART TRÔI DẠT TỚI BĂNG SƠN
Chính mana không thể vượt qua được của người mẫu đã khiến cho nhiều bức tranh chân dung của Marie Antoinette do Bà Vigée-Lebrun vẽ hoàn toàn không xứng đáng với người họa sĩ tuyệt vời này. Vì là hoàng hậu nước Pháp, nên người mẫu có lẽ đã bị điều khiển. Nhưng Marie Antoinette, không giống như những bậc tiền bối của bà, Maria Theresa của Tây Ban Nha và Marie Lexzinska, còn hơn là hoàng hậu nước Pháp. Bà cũng là người đứng đầu trong giới sang trọng nhất và sung túc nhất trong xã hội. Trong phẩm chất của một bà chủ độc quyền nhất Châu Âu, bà ta là không thể chịu được riêng đối với họa sĩ của mình. Trong tất cả những bức tranh này lớp nhung rất đẹp, vóc dáng thật thanh và oai vệ; những cái đầu ở trên mới đúng là một tuyệt tác của vẻ lợ đãng và quyến rũ.
Dĩ nhiên, người mẫu luôn luôn mạnh hơn. Không có ai không giàu có và có quyền lực lại đi về đặt vẽ tranh chân dung của mình. Quan trọng hơn hết, người mẫu chính là người trả tiền. Và, không có cách nào để làm cho một người mẫu chấp nhận một bức chân dung mà anh ta không hài lòng, cho dù được vẽ đẹp như thế nào đi nữa. Vì thế, người mẫu luôn luôn có lợi thế hàng đầu. Nhưng họa sĩ cũng có thể mạnh, thậm chí mạnh hơn cả người ngồi làm mẫu; chẳng hạn như nếu anh ta được bảo vệ bởi một hiệp hội chuyên nghiệp hiệu quả, như những phường hội ở thời trước; hoặc nếu địa vị xã hội của người họa sĩ thấp đến mức anh ta có thể được xem như một công nhân mà những quan điểm của anh ta, thậm chí được biểu lộ rõ khi vẽ, cũng không là vấn đề quan trọng đối với khách hàng của anh ta; hoặc nếu, ngược lại, địa vị xã hội của người họa sĩ trong chính tầng lớp của người làm mẫu quá vững chắc đến mức anh ta có thể làm bất kỳ thứ gì khi anh ta muốn; hoặc thậm chí đơn giản nếu anh ta lớn tuổi hơn khách hàng của anh ta và có thể gây ấn tượng cho họ bằng vốn kinh nghiệm và kiến thức về thế giới to lớn hơn.
Có những đặc tính cụ thể mà người họa sĩ cần phải có trong cuộc kéo co này, một cuộc chiến giải thích lý do tại sao những bức chân dung của những bậc vương giả và giàu có trong thời đại của chính chúng ta, họ hài lòng với sự giống nhau trong những bức chân dung đó, lại quá tối tăm một cách không đổi. Họa sĩ ngày nay không có sự ủng hộ chuyên nghiệp để đỡ lấy anh ta trước sự hiện diện của những người mẫu đáng khiếp sợ này. Khách hàng hoàng gia hoặc triệu phủ phải chọn họa sĩ của mình, không phải trong số những người giỏi, mà trong số những người đủ mạnh để đối mặt với ông ta và thể hiện được sự giống nhau lên tranh, những họa sĩ mà có địa vị xã hội và kinh nghiệm sống ngang với chính người khách hàng đó. Những phẩm chất này hiếm khi làm nên những họa sĩ giỏi.
Những họa sĩ vẽ tranh chân dung người Ý đầu tiên như Ghirlandaio có lẽ lợi dụng những phường hội của họ để tạo nên sức nặng và sức chịu đựng cho mình trước những người mẫu; Titian và Rubens là những ngôi sao nổi tiếng trong công chúng như những diễn viên điện ảnh ngày nay. John Singer Sargent thuộc tầng lớp vững chắc trong xã hội và Reynolds cũng vậy. Bất cứ thứ gì Reynolds có thể thiếu trong ân huệ công tước cũng được bù đắp bởi sự xuất chúng về tri thức do là thành viên của Câu lạc bộ Văn chương cùng với Johnston, Ganick và những người có óc hài hước khác. Velasquez, người được ghi nhận là không bao giờ mở miệng khi có sự hiện diện của người làm mẫu, có lẽ được những khách hàng hoàng gia kính trọng như một người thợ có tầm quan trọng trong xã hội không hơn gì một người làm vườn giỏi hay một đầu bếp. Degas đã sử dụng một mảnh khác. Ông đã nổi tiếng là người gắt gỏng nhất ở Paris. Đó là một lợi thế to lớn để khởi đầu. Ông cũng thường sắp xếp những khoảng cách vẽ sao cho nằm ngoài phạm vi linh hồn của người làm mẫu. Hầu hết những bức chân dung do ông vẽ đều có vẻ như được vẽ từ khoảng cách tối thiểu là 3m.
Đối với một họa sĩ điều dễ nhất là vẽ mọi vật theo kích thước mà anh ta thấy chúng - kích thước mà chúng sẽ xuất hiện trên tấm vải của anh ta nếu tấm vải trong suốt và anh ta đang nhìn xuyên qua nó để ngắm nhìn vật thể mà anh ta đang về. Nếu một họa sĩ đứng cách người mẫu 3m và giá vẽ của anh ở khoảng cách thuận lợi khoảng 1m, thì người mẫu sẽ tự động được vẽ với kích cỡ bằng 1/3 kích cỡ thực sự - trừ khi có nguyên nhân nào khác. Kích thước những nhân vật trong những bức tranh chân dung của Degas sẽ chỉ ra rằng chúng được vẽ ở khoảng cách 3m hoặc nhiều hơn. Thỉnh thoảng Degas cũng vẽ từ những bức hình chụp và không phải đối mặt chút nào với người làm mẫu. Thường ông ta vẽ những người hạ cấp hơn - những người hầu, những vũ công, những phụ nữ rửa bát; nhưng những bức vẽ này cuối cùng cũng không thể được xếp vào loại tranh chân dung. Những người mẫu có lẽ đã được trả tiền; với những người mẫu được trả tiền, thì vấn đề của bức chân dung và “cuộc kéo co" của nó sẽ không nảy sinh. Cái thực tế được trả tiền sẽ xóa bỏ mana của người mẫu, và duy chỉ có người họa sĩ là có sức mạnh. Dĩ nhiên, trừ khi người họa sĩ đang vẽ người mẫu của anh ta như một lời xin lỗi hoặc bước đầu hoặc khởi đầu của một tình yêu - trường hợp này chúng ta không cần phải để ý đến. Được thực hiện trong dự định này, bức tranh nói chung sẽ được vẽ ở khoảng cách gần nhất, và hiếm khi được thực hiện xong ngày sau lần ngồi làm mẫu đầu tiên.
Nguồn gốc thực sự của khó khăn của người họa sĩ là nghệ thuật nhiếp ảnh. Nghệ thuật nhiếp ảnh là tất cả về chúng ta. Chúng ta biết về nó quá rõ. Chúng ta tin tưởng nó quá. Dân chúng đã trở nên tin rằng cái mà máy chụp hình chụp đường ngoài tự nhiên chính là cái thực chứ không phải là cái mà đôi mắt hay người họa sĩ nhìn thấy. Một bức hình chụp là thực, rõ ràng và lâu bền, như một vật thể - không bị phai mờ, như một gương mặt. Và vì máy quay phim, cái có sức thuyết phục nhất trong tất cả các dụng cụ của nghệ thuật nhiếp ảnh, không bao giờ trình chiếu một gương mặt mà không có sự duyên dáng, một bức chân dung được vẽ mà không có cái gì đó của sự quyến rũ đó thì không thể là một đại diện thực sự của tự nhiên.
Khi nói về sự giống nhau trong vẽ chân dung Wilkie có lần đã nói với tôi rằng "Thật là tốt khi làm tăng vẻ đẹp của một làn da và tạo cho một gương mặt có vẻ trẻ trung, vì điều này là một biện pháp để đền bù cho nhiệt tình của cuộc sống và sự vận động."
Thomas Sully, "Những gợi ý cho những họa sĩ trẻ"
Không ai biết được mình trông giống cái gì. Anh ta biết trong lòng mình cảm thấy thích cái gì và thế thôi. Thậm chí khi anh ta tự ngắm mình trong gương, anh ta cũng làm cho khuôn mặt anh ta phù hợp với cảm giác, hoặc nếu không thì kềm chế một cách cẩn thận không nhìn vào nó. Một họa sĩ có thể tạo ra một cái nhìn thoáng qua về khía cạnh bên ngoài của ngọn lửa đầy sức sống mà mỗi chúng ta đều tự cảm nhận thấy chính là cái làm cho việc ngồi làm mẫu cho một bức chân dung trở nên một công việc say mê như vậy. Đây là lý do tại sao họa sĩ vẽ chân dung lại gây cảm giác sợ hãi cho người làm mẫu của anh ta - và lố lăng - như một thầy bói, và tại sao người họa sĩ và người làm mẫu lại thường tìm nhau, khó hỗ trợ nhau và không thể tha thứ nhau như vậy.
Cho dù sự bất đồng giữa người làm mẫu và người họa sĩ có thể xảy ra dưới hình thức nào, và kết quả của nó ra sao đi nữa, thì nó luôn luôn dính đến vấn đề sự giống nhau - linh hồn nào, cuộc sống nội tâm nào, của tất cả những cuộc sống nội tâm phong phú mà người làm mẫu có thể có, sẽ được quy cho anh ta, khía cạnh nào trong các khía cạnh khác nhau của tâm hồn người làm mẫu mà bức chân dung sẽ thể hiện lên. Sự giống nhau này hẳn không chỉ có một, là cái có thể xảy ra; nó cũng phải là cái đang xảy đến cho người làm mẫu và cho địa vị của anh ta. Về phần người họa sĩ, yêu cầu phải cư xử khéo léo và có kiến thức về thế giới. Để mà vẻ giống nhau - vẻ giống nhau này có nghĩa là khía cạnh bên ngoài của một cuộc sống nội tâm phù hợp - là một cái gì đó mà máy quay phim, hoặc bất cứ loại máy chụp hình nào, đều chỉ do tình cờ mới có thể đạt được, mặc dù điều này trái ngược với một niềm tin phổ biến nhất.
Sự giống nhau này trong một bức chân dung hay một tấm hình là một loại miêu tả tượng trưng của cả tính người làm mẫu. Hay đúng hơn nó là một sự tóm tắt của nó. Đối với cả tính là cái không bao giờ ổn định, nhưng thay đổi và biến đổi không ngừng. Người họa sĩ, bằng cách quan sát người làm mẫu qua một khoảng thời gian nhất định, có thể rút tỉa ra một tiêu chuẩn trung bình trong sự thay đổi liên tục của cá tính, và có thể thể hiện sự trung bình này như là một sự giống nhau đủ sức thuyết phục. Đây là lý do tại sao một bức chân dung có thể không bao giờ được vẽ trong khoảng thời gian ít hơn 3 hoặc 4 lần ngồi làm mẫu. Máy quay phim, bằng cách chụp liên tiếp một loạt hình của một diễn viễn, có thể thu lại một mặt cắt trong sự thay đổi liên tục của cá tính, và có thể thể hiện sự nối tiếp của sự thay đổi liên tục như là một sự giống nhau cố định. Máy quay phim, ngoài ra còn có một lợi thế là người diễn viên, để làm cho mọi việc dễ dàng hơn, đã được phân loại sẵn và được cách điệu hóa bởi những quy ước ngầm về tình tiết câu chuyện và sự hóa trang. Dĩ nhiên máy quay phim di động là máy và không phải là đối mắt của con người, vì thế sự giống nhau mà nó đạt được chỉ là hình ảnh mà người diễn viên được nhìn thấy đối với những máy quay phim di động khác, và rất hiếm khi là hình ảnh được chúng ta nhìn thấy khi chúng ta đối diện với người diễn viên đó.
Nhưng máy chụp hình thậm chí cũng không thể thu lại sự giống nhau này. Cửa chập của máy chụp hình hoạt động tức thời, nó không thể chụp một khoảng thời gian. Nó không miêu tả được tự nhiên, nó giữ cho nó cố định. Hình một ngọn sóng của nó trông giống như một tấm thiết bị nhàu nát, không giống như sự chuyển động êm ái của ngọn sóng mà chúng ta từng biết. Máy chụp lính chỉ có thể thụ lại một mặt cắt ngang của ngọn sóng như thu được cố định đúng lúc. Cũng bằng cách này. máy chụp hình chỉ có thể rút tỉa một phần thưa thớt từng chút một từ sự thay đổi cá tính liên tục của người làm mẫu. Mặt cắt ngang này không bao giờ là sự tổng hợp tiêu biểu của cá tính để được gọi là một sự giống nhau, trừ khi do những ngẫu nhiên hiếm hơi nhất.
Ngoài điều này. người làm mẫu, đã ổn định chờ tiếng bấm máy, không còn là chính anh ta; anh ta không có trong tâm trí của chính mình, dẫn dắt cuộc sống của chính mình và suy nghĩ những ý nghĩ của chính mình. Nhưng với tâm trí trống rỗng, người làm mẫu sẽ chấp nhận dấu ấn của tính cách của người thợ chụp hình; vì thế tấm hình chắc chắn sẽ trông giống như người thợ chụp hình. Ngay cả những diễn viên điện ảnh cũng phải cần suy xét điều này. Nhằm bảo đảm cho chính mình có một nhân cách phù hợp trên màn ảnh. Greta Garbo luôn luôn khăng khăng muốn được chụp hình bởi cùng một người thợ. Và Mariene Dietrich. khi thay đổi người chụp hình, là thay đổi luôn tinh cách của bà trên màn ảnh. Nhưng trường hợp này không phải là một trường hợp bình thường. Những nhân vật của quần chúng, người diễn viên cũng như chính khách, thường biết làm sao để ống kính quay được hình ảnh biếm họa đã được chấp nhận và được cách điệu hóa của mình, và không bao giờ thể hiện cái mặt ngoài hay thay đổi của tâm hồn anh ta. Thực tế cách sử dụng nhân cách biếm họa dễ dàng và đáng tin cậy này là một dấu hiệu để phân biệt của một giai cấp đã được biết tới những giới chuyên nghiệp và công khai như “The big time" (Đại thời gian). Tuy nhiên, ngoài giai cấp nhỏ này, có một quy luật chung mà khi vẽ một bức tranh, nếu bạn mong rằng sẽ thích nó, thì bạn phải chọn người thợ chụp hình nào mà bạn ít than phiền về sự giống nhau trong các tấm hình do anh ta chụp nhất.
Chúng ta nhận biết sự thay đổi liên tục trong tỉnh các y của một người chủ yếu qua hoạt động của các nét mặt. Nhưng một sự tổng hợp các đường nét trên khuôn mặt sẽ không thể một mình nó tạo ra sự giống nhau. Và một người vẽ tranh chân dung mà cứ sao chép nguyên sĩ các đường nét của khuôn mặt thì dù tỉ mỉ đến đâu đi nữa cũng không đạt được điều gì. Cảnh sát sử dụng một hệ thống phân loại các khuôn mặt theo một bộ các dạng đường nét khuôn mặt tiêu chuẩn - một chiếc mũ dài. đôi mắt hí, đôi môi dày. chiếc cằm chẻ và đại loại như vậy - các dạng này sẽ được giả định để hoạt động hoàn hảo trong việc nhận dạng những tên tội phạm mà đã được phân loại sẵn. Thường xuyên có những bài miêu tả trên các từ công báo, bằng cách tập hợp trên một khuôn mặt hình oval những dạng đường nữ của một tên tội phạm do những nhân chứng kể lại. bức chân dung của một tên tội phạm vô danh có thể được vẽ ra với sự giống nhau đủ để một người trên đường có thể nhận dạng ra hắn. Tôi không tin điều này có thể thực hiện được. Bản thân những đường nét khuôn mặt không chứa đựng sự giống nhau. Thực tế, những đường nét, như những thực thể hiện tại, thậm chí không có tồn tại nữa là. Chúng chỉ là những khái niệm trừu tượng bằng lời. những tên gọi thích hợp mà chúng ta gán cho những phần cơ động nhất trên chiếc mặt nạ hoặc những chỗ nối phức tạp nhất của những bề mặt tạo nên chiếc đầu. Chính bằng cách chỉ ra những bề mặt và những hình dạng của chính cái đầu chứ không phải bằng cách vẽ ra từng nét một những đường nét của khuôn mặt mà người họa sĩ có thể đạt được sự mô tả tính cách của anh ta. Anh ta hoàn thành được bức họa chân dung của anh ta bằng cách sử dụng những sự căng cơ, lực kéo và lực đẩy hoàn toàn trừu tượng, và sự tương tác lẫn nhau giữa những nét vẽ và những hình khối của anh ta, để tượng trưng cho cái gọi là lực kéo, lực đẩy và những tương tác lẫn nhau của các bề mặt và những hình dạng của chiếc đầu và cơ thể của người làm mẫu. Chỉ dựa trên sự tác động qua lại giữa những sự căng thẳng của những đường nét, bề mặt và khối lượng này mà tính cách được, hoặc có thể được, diễn tả.
Mỗi một sự kết hợp cụ thể các đường nét, bề mặt và khối lượng - trong nghệ thuật cũng như trong tự nhiên - đều có một ý nghĩa cụ thể đối với chúng ta. Ví dụ, chúng ta nói rằng một cái cây, một cái cây thực sự trên cánh đồng, nghiêng sang bên trái. Chỗ đất hơi cao lên tại gốc cây chỉ ra vị trí của một cái rễ quan trọng. Nếu đất cao hơn ở bên trái, trọng lượng của cây đang đè nặng lên rễ trong lòng đất. Nếu đất cao hơn ở bên phải, cây đang kéo ngược cái rễ, kéo nó ra khỏi mặt đất. Những điều này chúng ta cảm thấy như hai điều hoàn toàn khác nhau, khác nhau như ý nghĩ - hay cảm giác - đẩy một chiếc xe hơi với ý nghĩ - hay cảm giác - nâng một trọng lượng. Những cảm giác về cơ bắp của chúng ta ý thức một cách tinh tế những lực ép và lực căng này. Đó là cảm giác về cơ bắp giao cảm trong cơ thể của chính chúng ta về những lực ép và lực căng này, và chúng ta chuyển dịch chúng sang những ngôn ngữ xúc cảm của chính chúng ta, những xúc cảm mà chúng ta hiểu như là tính cách của một người trước mặt chúng ta. Vì mỗi một sự sắp xếp cụ thể các hình khối của một gương mặt hay một thân hình, cả trong cuộc sống lẫn trên tranh vẽ, bằng cách tác động lên những cảm giác thuộc về cơ bắp của chúng ta, sẽ cho chúng ta những hiểu biết rằng gương mặt của chúng ta sẽ cảm thấy như thế nào nếu chúng ta nhãn mặt theo một hình dạng nhất định, hoặc cơ thể của chúng ta sẽ ra sao nếu chúng ta bắt chước theo một điệu bộ mà chúng ta đã thấy, và cảm xúc hoặc tính cách hoặc tính cảm cụ thể nào sẽ làm cho chúng ta phải nhăn nhó hoặc bất động. Vì vậy bằng cách sử dụng những kết hợp các đường nét và hình khối và hình dạng, và cơ vận động và ý nghĩa tình cảm mà chúng có đối với chúng ta (và không có sự kết hợp nào như vậy mà lại không mang một ý nghĩa nào) người họa sĩ có thể mô tả và làm cho chúng ta cảm thấy được tính cách của bức chân dung mà chúng ta đã nhìn thấy. Nhưng chính xác bằng cách nào anh ta đạt được điều ấy thì thậm chí chính bản thân người họa sĩ cũng không hiểu rõ.
Tâm hồn mà tạo nên nền tảng cho chân dung này (Dĩ nhiên tôi đang nói về những tâm hồn của con người, chứ không phải những linh hồn bất tử - tâm hồn của cuộc sống nội tâm, nếu bạn thích) thay đổi tính cách tùy theo tuổi của người chủ sở hữu nó. Hầu hết những tính cách chưa thể hiện rõ nét ở thời thơ ấu, sẽ hình thành cụ thể ở tuổi thanh niên để biểu lộ đặc điểm cơ bản của gia đình, dòng dõi và chủng tộc. Ở tuổi trung niên tính cách phản ánh những tham vọng của các nhóm khác nhau mà chủ nhân của tính cách đó tham gia vào. Vào tuổi già tính cách là một dấu ấn của những mệt mỏi, tội lỗi và thành quả riêng. Khi chúng ta nói đến sự không tự ý thức của một đứa trẻ có nghĩa là chúng ta không nói đến điều gì khác sự độc lập của một bộ máy sinh học ngăn nắp đang chạy hết tốc độ. Tâm hồn của những năm trung niên không ổn định hơn thế này, kém tự tin hơn, và liên tục chịu những ảnh hưởng từ bên ngoài. Ở tuổi già tâm hồn một lần nữa trở nên cứng rắn lại bởi sự cứng rắn trong quá khứ.
Vấn đề thông thường nhất của họa sĩ vẽ tranh chân dung là vẽ người ở độ tuổi trung niên. Vẽ một đứa trẻ là vấn đề của sự sáng chế và sự ứng biến hơn là vấn đề của việc vẽ chân dung - làm cách nào để làm việc đủ nhanh để mọi việc xong trong thời gian ngắn mà người họa sĩ có thể lôi kéo được sự chú ý của đứa trẻ, và làm cách nào để nhớ, hoàn chỉnh, và sáng tạo ra một chân dung khi đứa trẻ không còn ngồi yên nữa. Vẽ trẻ em không dễ. Ở đây người họa sĩ không chỉ là một người quan sát vô tư để thu nhận các tính cách của đứa bé, và là người bạn cảm thông đáp lại nhiệt tình của những tình cảm ở tận trong lòng đứa bé; anh ra còn là người bảo mẫu dữ tợn để giữ cho đứa bé ngồi yên. Tôi tưởng tượng rằng thậm chí Goya cũng gặp khó khăn bởi loại tranh chân dung này khi tôi ngắm các bức chân dung trẻ em của ông ta. Những đứa trẻ trong tranh của ông không có đặc điểm tỉ mỉ như trong những bức chân dung khác của ông. Chúng dường như, trong vẻ đăm chiêu lơ đãng, trông giống như những đứa trẻ được nhớ lại khi chúng đã vắng mặt hơn là thực tế sôi động. ổn ào mà người họa sĩ thực sự gặp ở lần ngồi làm mẫu đầu tiên của đứa bé.
Vẽ trẻ em xét theo một khía cạnh nào đó thì dễ. Sẽ không có sự tranh cãi nào giữa người làm mẫu với người họa sĩ về sự giống nhau. Người họa sĩ và người làm mẫu sống trong những thế giới khác nhau, và cách người họa sĩ nhìn và vẽ đứa bé, đối vứt nó, hoàn toàn không quan trọng. Ngoài ra. đứa bé là một cá thể quá nhỏ bé, những đặc điểm trong tính cách của nó khó mà nhận ra và khó thấy được, nên bố mẹ của chúng sẽ chấp nhận bất kỳ sự miêu tả nào, đó không phải là điều phiền toái. Vẽ người già cũng thế, khá dễ - dễ nếu người làm mẫu. trong suốt những năm tháng cuộc đời của mình, cũng đạt được sự trọng vọng và tự hảo đối với những kinh nghiệm và thành tựu của ông ta. Nhưng nếu ông ta thèm muốn sự trẻ trung và cố tỏ ra mình trẻ, thì ông ta chỉ có thể trở thành một nhân vật trong tranh hiếm; ông ta không thể được vẽ chân dung nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này người họa sĩ bị đòi hỏi phải vẽ khác đi vẻ bề ngoài nhân vật già nua của mình và vẽ, không phải người mà anh ta nhìn thấy ở đằng kia, mà là một diện mạo đã được biến hóa mà người làm mẫu tin rằng ông ta đang mang cái diện mạo ấy. Chắc chắn rằng một bức tranh như vậy chỉ có thể là một sự hợm hĩnh của người làm mẫu đã có tuổi, vì bức tranh như thế chỉ có giá trị thấp. Nó là một bức tranh của sự trừu tượng, một ý tưởng, và có chút ít quan hệ với thế giới thực tại và hữu hình, và đối với quan điểm và tình yêu và ký ức của người họa sĩ về bức tranh đó, bức tranh đã được thực hiện bên ngoài những điều này.
Loại khó khăn này cũng nảy sinh khi mà người làm mẫu coi trọng một số ý tưởng cụ thể về ngoại hình và sự lịch thiệp trong xã hội mà anh ta sống. Ở đây người họa sĩ buộc phải cách điệu hóa ngoại hình người làm mẫu bằng cách ấn định cho khuôn mặt của anh ta một vẻ chân dung đang thịnh hành. Diện mạo hợp thời trang này chỉ là một ý tưởng, một sự tổng hợp, và một bề mặt phẳng. Thậm chí khi người làm mẫu cố gắng xoay xở khoác lấy diện mạo đó, thì nó cũng không phải là diện mạo của anh ta khi anh ta không có cận vệ bên cạnh, cũng không phải là khía cạnh đáng chú ý nhất của anh ta xét về mặt con người. Ví thế một bức tranh được vẽ dưới những hạn chế của những thời trang bị áp đặt này không thể thật theo cách nhìn của con người cũng không thật sự thú vị.
Đặc điểm phân biệt của tranh chân dung theo phong cách "grand" (grand style) - của Titan, Bronzino, Rembrandt, Greco và những họa sĩ tương tự - là sự thiếu vắng hình thức cách điệu hóa ngoại hình cụ thể này. Vẽ chân dung theo phong cách “grand”, chính là trường phái hội họa mà nó xuất thân, như chính nhân vật người của nó, không phải ngẫu nhiên mà nó có được sự hợp thời hoặc sự cách điệu ngoại hình có thể chấp nhận được. Vấn đề không phải là chủ đề của nó cũng không phải là con người nói chung. Người họa sĩ theo phong cách “grand" không khái quát hóa. Họa sĩ vẽ tranh tĩnh vật về một trái táo cụ thể mà anh nhìn thấy ngay trước mặt, chứ không phải là trái táo lý thuyết hoặc cái bản chất của trái táo. Họa sĩ vẽ tranh chân dung theo phong cách “grand” không có gì để làm với con người nói chung hoặc thậm chí với bất kỳ quan niệm lý tưởng nào về anh ta. Thay vì anh ta vẽ một con người cụ thể - người làm mẫu của anh ta như một con người mà nhân tính chủ yếu của anh ta khác với tất cả những hình mẫu khác của loài người. Không có sự cách điệu hóa về ngoại hình, không có sự hợp thời hoặc thị hiếu bị áp đặt nào được cho phép xuất hiện giữa họa sĩ và người làm mẫu, nhằm để giảm bớt vẻ oai vệ tự nhiên của người làm mẫu như Con trai của Adam và một tâm hồn bất tử. Những tên kẻ cướp của Pontormo, những hoàng tử của Titian, những giáo hoàng và những nhà thơ, những người nghèo khổ của Rembrandt, mặc những bộ quần áo lụa là, những bộ đồ rách rưới và những tấm áo bông thô để khoe ra, không che giấu giá trị con người này. Bức tranh “Halbardier” của Pontormo trong bộ sưu tầm Stillman tự hào về chiếc áo chẽn màu vàng bờ của anh ta cùng với hai tay áo khổng lồ. Anh ta trông lộng lẫy hơn người đàn ông bất động bên trong chiếc áo đó. Chàng trai trẻ lịch lãm của Bronzino trong bức tranh Frick, mặc một cái à l'espagnole màu đen, chiếc áo chẽn của anh ta với những vết chém để lộ rõ sự can đảm của anh ta trong trận chiến đấu, một chiếc mề đay trong tay của anh ta nhằm biểu lộ khiếu thẩm mỹ, và nam tính của anh ta được thể hiện bởi một codpiece (túi, nắp che chỗ mở phía trước quần của nam giới ở thế kỷ 15, 16) giản dị, có một tính cách tỉ mỉ nổi bật hơn bất kỳ thứ gì trong các bộ quần áo hợp thời trang này. Và bức tranh “Old woman cutting her nails” (Bà lão đang cắt móng tay) của Rembrandt tại Thủ đô, ăn mặc một cách bẩn thỉu như thể quần áo của bà ta là miếng giẻ lau, có trong cái nhân tính không được ưa mến của bà ta là tất cả ảnh hưởng tàn bạo của Đất Mẹ. Nhưng bà ta vẫn là một phụ nữ, và là một phụ nữ khác với tất cả những phụ nữ khác.
Nếu những bức tranh chân dung của thế kỷ 18 kém thú vị hơn nhiều so với những bức tranh này đối với chúng ta, thì nguyên nhân không phải là do những họa sĩ đó không khéo léo. Ngược lại, những họa sĩ ở thế kỷ thứ 18 có kỹ thuật vẽ điều luyện một cách đăng kinh ngạc. Đơn giản là vì những người mẫu của họ, như tất cả những người Châu Âu sang trọng vào thời đó, đã tuân theo một sự cách điệu về ngoại hình và cách cư xử có nguồn gốc từ nước Pháp và đã chi phối toàn Châu Âu vào thế kỷ thứ 18. Sớm hơn, từ giữa thế kỷ thứ 16 đến những năm đầu thế kỷ thứ 17, những kiểu cách trong cách cư xử và ăn mặc của cả Châu Âu bắt nguồn từ những cách cư xử và ăn mặc của triều đình Tây Ban Nha - hay đúng hơn là từ những cách cư xử và phong tục được người Tây Ban Nha và chính phủ Tây Ban Nha của xứ Hà Lan suy ra từ người Ý và tại triều đình nước Pháp. Nhà xác và tính kiểu cách của người Tây Ban Nha và cách sử dụng màu đen trong y phục (điều này chỉ có ở Tây Ban Nha, nơi mà cây chàm rất dễ kiếm, cây này cho màu nhuộm đen đẹp) đã được ngưỡng mộ và bắt chước ở tất cả các hoàng gia Châu Âu. Nhưng vào khoảng đầu thế kỷ 18, trang phục và cách cư xử tại triều đình Pháp đã trở thành kiểu mẫu cho dáng vẻ bề ngoài và thái độ của tất cả thế giới văn minh.
Sau một phần tư đầu thế kỷ, du lịch đến các nơi ở Châu Âu đã trở nên dễ dàng (trừ Tây Ban Nha). Leopold Mozart, như bất kỳ người nào khác có nhu cầu, đã có thể đi khoe con gái thần đồng và con trai phi thường của ông từ nước Áo sang Pháp, tới Anh, tới Ý, và trở lại lần nữa, bất cứ nơi nào có thể tổ chức một buổi hòa nhạc hoặc có thể kiếm được một khoản tiền thù lao hoặc một chiếc đồng hồ vàng. Do du lịch trở nên dễ dàng như vậy, nên sự khác biệt giữa các quốc gia, ít nhất là giữa các tầng lớp cao, có khuynh hướng biến mất. Sự duyên dáng, vấn đề chính của thời trang có ở khắp mọi nơi; sự duyên dáng và sự nhã nhặn là những điểm để phân biệt của một người quý phái. Cuộc đàm luận, những môn khoa học tự nhiên (được gọi là triết lý tự nhiên) và thái độ cư xử tao nhã được quý trọng ở khắp mọi nơi, vì thế những tên đều như Cagliostro, Casanova và Bá tước Saint Germain (người đã dạy Louis XVI cách để làm ra kim cương) đã sống thật huy hoàng chỉ dựa trên giá trị tiêu khiển và phong cách có vẻ đáng tin cậy của họ. Một đoàn người quốc tế, rất giống nhà triệu phú người Bohemia của những năm 1920, đã đi khắp Châu Âu, viếng thăm những lâu đài, các triều đình và các doanh trại quân đội, tiêu thời gian ở sòng bài, trong xã hội, tán tỉnh phụ nữ và xem kịch opera. Giới giàu có thì rất giàu, và họ có thể thưởng thức những xa hoa lộng lẫy. Tài nghệ giỏi ở khắp mọi nơi. Các phường hội vẫn còn tồn tại; bất cứ thứ gì được làm ra đều được tạo ra để tồn tại. Nhà cửa, vườn tược, đồ gỗ, gấm thêu, bát đĩa bằng vàng bạc, đồ sành sứ, tượng điêu khắc, tranh ảnh - tất cả các loại đồ vật do con người làm ra đều gia tăng về số lượng để đáp ứng sự tiêu thụ của những người có khiếu thẩm mỹ. Người có khiếu thẩm mỹ là người biết nên thích cái gì. Nhưng người có khiếu thẩm mỹ ở thế kỷ 18 là người biết nên mua cái gì. Bất kỳ thứ gì anh ta mua cũng đều bị ảnh hưởng bởi thị hiếu của triều đình Pháp. Và triều đình Pháp đã đòi hỏi mọi người, mọi nơi, mọi lứa tuổi hoặc mọi địa vị đều phải có một diện mạo bề ngoài thanh thoát, phong cách tao nhã, và duyên dáng.
Bản thân trang phục, với những áo khoác ngoài dài và bộ tóc giả dành cho đàn ông và những bộ ngực đầy đặn và mái tộc được trang điểm dành cho phụ nữ, dường như được tạo ra để che giấu những khác biệt riêng của mỗi người - kể cả tuổi tác - nhằm thể hiện địa vị xã hội. Trong các vở kịch được trình chiếu vào thế kỷ 18, trang phục của các diễn viên khiến ta dễ dàng phân biệt được ông chủ và người hầu. Nhưng chính trong số những ông chủ, thì chúng ta không thể nói được người này khác với người kia trừ khi phân biệt bằng màu sắc của quần áo. Sự cách điệu hóa của thái độ cư xử và nét mặt hoàn toàn cân bằng. Kể cả "người độc ác quý tộc" của những nhà triết lý hợp thời, Rénés và Atalas v.v..., được cho rằng đã được trời phú cho phong thái vương giả. Điều bất ngờ hoặc hung tợn trong cách cư xử hoặc diện mạo được xem là "Gothick" (giống như thứ âm nhạc gồm có trống và chũm chọe được gọi là "Turkish” - Thổ Nhĩ Kỳ). Người ngồi làm mẫu để vẽ chân dung sẽ thể hiện chính bản thân anh ta, không như một con người. mà như một diễn viên đang diễn vai trò của một con người với sự khéo léo, duyên dáng, và sự lịch thiệp. Ví dụ, có một bức chân dung trong bộ sưu tập Habsburg do họa sĩ người Pháp Duplessis vẽ, trong đó người nhạc trưởng, Gluck, tại cây đàn clavico, bàn tay chỉ huy của ông được ánh sáng chiếu rõ, dường như đang hoạt động với uy quyền êm ái phần việc của một chỉ huy trưởng của một dàn nhạc; hoặc bức chân dung trong điện Louvre của vua Louis XV do Hyacinthe Regaud vẽ, nơi mà một vị vua, một người to lớn trong bộ đồ to lớn, đang diễn một phần của vở “Le Roi de France" với một sự chắc chắn hoàn toàn. Những bức tranh này thật xinh đẹp lạ thường. Nhưng những người mẫu đã không được phú cho sự sâu sắc mang bản chất con người vì những bức chân dung đã được vẽ vào thời kỳ sở hữu sơ khai - như Aretino của Titian hay In- quisitor của Greco. Chủ đề của những bức tranh chân dung thế kỷ 18 này là vị trí xã hội của người mẫu, chứ không phải là địa vị của anh ta như là một thành viên của loài người. Điều này không phải là lỗi của họa sĩ. Đơn giản là vì những quy ước về ngoại hình thích hợp đã đến giữa người họa sĩ và người mẫu của anh ta, và khiến cho người họa sĩ không thấy được thực chất của người mẫu như một con người - một thực chất mà không thể lệ thuộc vào bất kỳ quy ước nào và vẫn duy trì năng lực phóng ra đầy đủ của nó. Ngoài ra, phong cách tao nhã phổ biến được thiết lập bởi thị hiếu của người Pháp chắn chắn không phải là khía cạnh quyến rũ nhất của động vật cao cấp con người. Và nó cũng vẫn thế cho đến khi những quy ước này bị tiêu tan bởi sự bùng nổ của cuộc cách mạng Pháp mà tranh chân dung một lần nữa lại có thể gánh lấy sức mạnh của sự thích thú và quyền lực sự thông tin mà việc vẽ trực tiếp một con người không được uốn nắn cho đúng kiểu có thể tạo ra.
Họa sĩ trong thời đại chúng ta phải đối mặt với vấn đề giống thế này, và dưới hình thức cao nhất của nó. Sự cách điệu hóa mà thời đại chúng ta đặc biệt ngưỡng mộ lại ngớ ngẩn và cứng nhắc hơn bất kỳ thứ gì mà họa sĩ của thế kỷ 18 phải đối phó. Người mẫu ở thế kỷ 18 chỉ đòi hỏi được vẽ sao cho duyên dáng và tao nhã. Người mẫu ngày nay chắn hẳn là quyến rũ. Kết quả là, những bức chân dung được vẽ vào thời này nằm dưới tiêu chuẩn đạo đức và được thực hiện tồi. Bất chấp những nơi quan trọng mà việc vẽ chân dung được thực hiện trong quá khử, và nó luôn luôn đã từng là một nghề kiếm ra tiền, nhưng một vài họa sĩ bậc thầy đương thời cũng đã phiền vì nó. Những quy ước chi phối việc vẽ tranh chân dung quá hạn hẹp để giữ được sự thích thú của họ. Nguồn gốc của sự cách điệu hóa ngoại hình của chúng ta là tranh ảnh chuyển động.
Triều đình tại Versailles không còn là quê hương của thời trang nữa; vào thời của chúng ta đó chính là phim trường Hollywood, những xưởng phim giải trí phổ biến của chúng ta. Tuy nhiên, “Giải trí” không phải là tên chính xác của cái mà nền công nghiệp phim cho chúng ta. Thực tế, có rất ít phim là để giải trí theo bất kỳ khía cạnh nào. Khán giả của nó không trả tiền để được gây cười. Họ trả tiền để được ngồi im lặng trong bóng tối và được yên tĩnh để xem những hình ảnh đáp ứng được những nhu cầu cấp thiết nhất đang trôi qua ngay trước mắt họ - tiêu tiền và đón nhận tình yêu. Sự thích thú kịch nghệ chỉ là một sự trang trí thêm vào - như là phim màu. Sự đòi hỏi chủ yếu từ phim ảnh là sự say mê và quyến rũ. Sự say mê này, sự quyến rũ này, có nhiều hình thức nhưng nó luôn luôn hiện diện. Nó sự hóa trang bên ngoài mà thậm chí việc đóng phụ vai một tên côn đồ đơn giản nhất cũng sẽ không được phép biểu lộ ra trước ống kính. Chiếc mặt nạ của sự quyến rũ này trên gương mặt của một diễn viên bảo đảm cho chúng ta rằng anh ta là một phần của giấc mơ vô hại mà chúng ta đã trả tiền để được xem, và không phải là một phần của thế giới bên ngoài đầy bất trắc và nguy hiểm. Đây là sự cách điệu hóa mà Hollywood áp đặt lên tất cả diễn viên của họ - và cũng lên tất cả chúng ta.
Một sự diễn tả hành vi của con người có một ảnh hưởng lớn lên cách cư xử hàng ngày của chúng ta hơn là chúng ta thường nghĩ. Chúng ta thực sự nhìn thấy hoặc hành động như thế nào đều không bị nó làm cho thay đổi. Cái bị làm cho thay đổi chính là cách chúng ta thích nghĩ về chính chúng ta khi nhìn, và cách chúng ta thích nghĩ về ảnh hưởng của chúng ta, và sự ảnh hưởng của sự quyến rũ chúng ta lên người khác. Sự cách điệu hóa này tạo ra cho người họa sĩ vẽ tranh chân dung ngày nay một sự hạn chế không thể chịu đựng được. Vì người mẫu của anh ta đã có sẵn trong đầu một người mẫu mà anh ta phải được vẽ giống như vậy, không phải là một con người hay thậm chí một phẩm chất con người nào, mà sự tưởng tượng chung chung thú vị bắt nguồn từ tất cả những cuốn phim mà người đó đã từng xem. Vì thế người mẫu hiếm khi có một khái niệm đơn giản về việc anh muốn được vẽ ra như thế nào. Nếu mơ ước của người mẫu là được kính trọng, và người họa sĩ vẽ anh ta với tất cả những kiểu quyến rũ mà anh ta đòi hỏi, bức chân dung ngay lập tức sẽ có một vẻ giống như một đám những thứ trái ngược nhau. Người họa sĩ, đối mặt với sự cần thiết phải vẽ một người phụ nữ góa chồng giàu có, đầy uy quyền và có sức quyến rũ ghê gớm – Gertrude đã nói, mọi người đều nghĩ về anh ta như là một thanh niên đã trưởng thành - tôi nói, người họa sĩ có lẽ sẽ rất ngại ngùng, bỏ qua tính cách thực sự của người mẫu, và vẽ bà ta với một vẻ đẹp huyền bí trịnh trọng và một sự gợi tình thường gặp của một nữ diễn viên điện ảnh đang chụp hình. Người họa sĩ tự khinh miệt chính mình và cái công việc mà anh ta được trả tiền để thực hiện. Hậu quả nghiêm trọng là các họa sĩ hầu như không vẽ tranh chân dung. Đối với những bức tranh chân dung đã được vẽ với quan điểm đã bị biến đổi về sự đa dạng khôn cùng bản chất của con người như vậy có thể có một ít giá trị nhân bản hoặc nghệ thuật và trong tương lai sẽ chỉ là những tài liệu thú vị.
Nguồn gốc thực sự của khó khăn của người họa sĩ là nghệ thuật nhiếp ảnh. Nghệ thuật nhiếp ảnh là tất cả về chúng ta. Chúng ta biết về nó quá rõ. Chúng ta tin tưởng nó quá. Dân chúng đã trở nên tin rằng cái mà máy chụp hình chụp đường ngoài tự nhiên chính là cái thực chứ không phải là cái mà đôi mắt hay người họa sĩ nhìn thấy. Một bức hình chụp là thực, rõ ràng và lâu bền, như một vật thể - không bị phai mờ, như một gương mặt. Và vì máy quay phim, cái có sức thuyết phục nhất trong tất cả các dụng cụ của nghệ thuật nhiếp ảnh, không bao giờ trình chiếu một gương mặt mà không có sự duyên dáng, một bức chân dung được vẽ mà không có cái gì đó của sự quyến rũ đó thì không thể là một đại diện thực sự của tự nhiên.
Shakespere không có những anh hùng; những cảnh trong kịch của ông chỉ có những người đàn ông.
Samuel Johnson, "Lời tựa cho Shakespere"
Trong bộ sưu tập của Frick có một bức tranh chân dung do Hogarth vẽ Có Mary Edwards, một trong những phụ nữ giàu nhất ở nước Anh, người là nói rằng chính cô là người đã tuyên bố con trai của mình là một đứa con hoang để lấy lại tài sản của mình một lần nữa từ một nhà quí tộc mà cô làm vợ. Người phụ nữ trong tranh của Hogarth, với nữ trang, con chó của mình và nụ cười khoan dung, trông rất có vẻ Anh. Diện mạo của cô không có một chút gì của thái độ hòa nhã của Châu Âu. Cô hơi giống với bức tranh Moll Flanders đương thời như là một ví dụ mang tính đạo đức của Defoe có lẽ đã được trình bày vào một trong những năm huy hoàng của cô ta.
Gần bức tranh này có treo một bức chân dung khác của một phụ nữ người Anh, nữ bá tước xứ Clanbrassil, do Van Dyke vẽ. Người phụ nữ của Van Dyke mang vẻ xa cách, duyên dáng và được khắc họa tính cách một cách hoàn hảo. Nhưng không giống như người mẫu của Hogarth, bà ta không giống người Anh một chút nào. Lý do thật dễ nhận ra. Hogarth là người Anh còn Van Dyke thì không.
Đối với Van Dyke tính cách của người Anh là kỳ cục, và nếu một họa sĩ muốn giữ phong cách “grand", anh ta phải tránh xa sự kỳ cục như là một bệnh dịch. Vì cái mà chúng ta tìm thấy sự thú vị trong một bức tranh không phải là sự kỳ cục mà người họa sĩ tìm thấy ở chủ đề - cũng không phải là cách vẽ tranh biếm họa hợp lý mà anh ta đã tạo ra bức tranh. Cái thu hút được sự quan tâm của chúng ta là sự kỳ cục mà chính chúng ta tìm thấy ở người họa sĩ, người đã làm cho chúng ta thấy xuyên qua đôi mắt lạ lùng của chính anh ta sự kỳ lạ bất ngờ của những thứ bình thường nhất trên thế giới. Sự kỳ cục trong chủ đề là một sự kỳ lạ quá rõ ràng mà người họa sĩ theo phong cách “grand” phải tránh.
Song đặc điểm quốc gia là có tồn tại, và không thể nhầm lẫn được. Nó không phải là thẻ ghi tên đơn giản hay sự đóng gói mà Hollywood giả vờ khi sử dụng diễn viên người ở Viên cho những phần của người Pháp trong phong cảnh Paris - dựa trên nhiều căn cứ, tôi cho rằng tất cả người Châu Âu đều xa lạ như nhau và nói cùng một giọng. Những diễn viên này có chỉ có thể có sức thuyết phục đối với những khán giả chưa bao giờ gặp một người Paris thực sự hay một người ở Viên thực sự. Vì đặc điểm quốc gia không được không chỉ được cấu thành từ những điểm mà mọi người trong quốc gia đó có, như tóc vàng và nói tiếng Pháp, hay bất kỳ một loạt những thứ mà mọi người trong quốc gia đó làm, như nhai kẹo cao su hay uống trà. Nó còn được tạo thành bởi tất cả những thứ mà tất cả những người dân trong quốc gia đó nghĩ rằng không nên làm. Vì thế không thể có chuyện mà một người đã từng biết Paris và Viên lại lẫn lộn giữa người Paris và người Viên, bởi vì đặc điểm tính cách và ngoại hình không ai để ý mà cuộc sống tại Paris và Viên đòi hỏi lại không giống nhau một tí nào. Những điều kiện tất yếu khác nhau này tô điểm cho mỗi hành động, mỗi cử chỉ và mỗi cư xử thanh lịch của những cư dân của hai thành phố theo một phong cách không thể lầm lẫn được.
Đặc điểm quốc gia là cái mà một họa sĩ phải tìm ra một cách để xử lý nó. Nó là một phần không thể tách rời của chân dung người được vẽ. Một họa sĩ bản xứ có thể cảm thấy nó mà không cần phải cố gắng gì, và sẽ vẽ được đặc điểm quốc gia của người được vẽ mà không cần biết anh ta đã từng làm như thế. Nhưng một họa sĩ nước ngoài trong một vùng đất lạ sẽ gặp khó khăn trong việc lựa chọn. Đối với anh ta đặc điểm quốc gia này thật là kỳ cục. Hoặc là anh ta phải tránh vẽ theo phong cách “grand”, vẽ những đặc tính của người được vẽ mà anh ta thấy nổi bật nhất bởi vì chúng khác với anh ta nhất, và sẽ vẽ thành một bức biếm họa về quốc tịch, như Sargent và Manet đã làm với những vũ công người Tây Ban Nha và những người đấu bò tót của họ, và Delacroix và David đã làm với những người Algeri và người La Mã cổ đại. Hoặc, nếu anh ta giữ phong cách "grand", anh ta phải phớt lờ sắc thái kỳ lạ của người được vẽ và vẽ người đó như là một người dân của chính quốc gia anh ta chứ không phải là vẽ một người ngoại quốc.
Những điều này hẳn là có cùng với những người mà Holbein đã vẽ. Nhưng đây không phải là tính cách mà họ có khi xuất hiện trong tranh của ông, ông cũng không thể cho họ tính cách này thậm chí khi ông rất muốn. Vì Holbein là người Thụy Sĩ. Để giữ phong cách “grand” trong tranh vẽ của mình ông buộc phải lờ đi tính cách khác lạ sinh động của người mẫu và vẽ họ như vẽ chính mình.Ngoài ra, một họa sĩ gốc nước ngoài không còn cách nào khác là phải tin rằng những đặc điểm tính cách được ưa thích ở đất nước anh ta là những lý tưởng về ngoại hình và cách cư xử cho tất cả các sắc dân trên thế giới. Vì thế Holbein thỉnh thoảng có thể thử tâng bốc những hoàng tử nước Anh bằng cách gán cho họ những gì mà ông cho là cao quý nhất trong tất cả phẩm chất của con người một cách tự nhiên - tính đáng tin cậy vững chắc của một chủ Ngân hàng người Basle. Cũng vì những nguyên nhân đó mà những người Anh do Peter Lely, người Hà Lan, vẽ trông giống như người Hà Lan vậy, và những bức chân dung người Anh do Van Dyke, người Flenish, vẽ trông giống sự nghỉ ngơi của giới quốc tế Flenish - Tây Ban Nha, những khách hàng thường xuyên của ông. Những phụ nữ thuộc dòng dõi cao sang và đáng tôn quý này, những gã đàn ông quỷ quyệt và thích chưng diện này trong những bức chân dung của Van Dyke - dù họ rất có thể đúng là loại người mà người Anh dưới thời vua Stuarts khao khát được giống họ - có rất ít tính cách Anh trong ngoại hình của họ. Chắc chắn nhất là họ không giống bất kỳ một người Anh nào được vẽ vào thế kỷ 18. Người Anh trong các bức chân dung ở thế kỷ 18 có sức thuyết phục đối với những đặc điểm Anh trong đó. Những họa sĩ vẽ những người mẫu thời George chính là những người Anh.
Mặc dù đã từng không có hội họa Anh trước thời Hogarth, nhưng cũng không khiếu truyền thống hội họa trên cựu lục địa. Hogarth, họa sĩ đầu tiên của nước Anh, đã đi đến nước Hà Lan vì phong cách và kiến thức của ông. Với vị trí là một họa sĩ bản xứ Anh quốc đầu tiên đã tạo cho ông một sự độc lập đáng ghen tị. Ông không theo truyền thống hay tuân lệnh của người bản xứ, ông cũng không bị gây ấn tượng và ảnh hưởng bởi khiếu thẩm mỹ của người Pháp, là những thứ đang bắt đầu trở thành thời thượng. Đó là thị hiếu của thời kỳ nhiếp chính ngông cuồng và dâm loạn trước triều đại của vua Louis XV ở Pháp, và Hogarth như là một nhà đạo đức học và một người Anh yêu nước đã tích cực chống đối nó. Thực tế, những bức tranh nổi tiếng của ông, loạt tranh "The Rake’s Progress" và "Marriage à la Mode" được vẽ một cách chính xác để nhạo báng ảnh hưởng của sự xa hoa ngoại nhập này lên người Anh. Hậu quả là, với một truyền thống kỹ thuật làm việc lành mạnh và không nhiễm thị hiếu của người địa phương hay thị hiếu bị áp đặt mà có thể hạn chế tầm nhìn của ông ta - và đồng thời cũng đang trở thành một thiên tài vĩ đại - Hogarth đã có thể khám phá ra những nét kỳ lạ trong ngoại hình người mẫu của ông với một sự tự do mà không một họa sĩ người Anh nào sau này được cho phép thực hành lại một lần nữa. Những người được ông vẽ mang một nét Anh không thể nào lẫm lẫn được. Họ khác với những người Anh được các nhà văn miêu tả từ thời Aubrey và Defoe. Họ là những người mà có thể được biết đến và được hoan nghênh bởi sự hiểu biết, và những bức tranh của ông miêu tả họ với tất cả sự châm chọc và những cái khác thường mà họ chắc chắn có. Hogarth chắc chắn là họa sĩ người Anh vĩ đại nhất. Công việc của ông có sự tươi tấn, sự thiên tài, tính trí tuệ. Nhưng nó theo một phong cách "grand" chứ không phải “noble” (cao quý). Không có tính thanh lịch trong đó, không có gì để gây ấn tượng với người Pháp. Khoảng năm 1750, khoảng thời gian có đủ họa sĩ, với Reynolds và Gainsborough, để tạo thành một trường phái Anh có thể được công nhận, người Pháp và thị hiếu của họ không thể xem thường được nữa.
Khoảng đầu thế kỷ thị hiếu của người Pháp đã bắt đầu có ảnh hưởng đối với người Anh. Ví dụ sớm nhất có lẽ được tìm thấy ở các nhà thơ. Lấy những bài thơ đồng quê này - do Dryken viết trước thị hiếu của người Pháp, cho nhạc của Purcell:
Hòn đảo nhỏ đẹp nhất, tất cả những hòn đảo đang vượt lên,
Nơi của niềm thích thú và tình yêu,
Thần vệ nữ sẽ chọn nơi ở của nàng ở đó,
Và từ bỏ khu rừng Cyprian mà đi.
Và bài thơ của Pope, người đã góp phần giới thiệu phong cách Pháp, hoặc dù sao đi nữa cũng là sự sửa chữa của người Pháp, vào nước Anh:
Để dòng Pactolus dồi dào chảy qua những bãi cát vàng,
Và những cây rũ bóng màu hổ phách bên bờ sông Po:
Ban cho bờ sông Thames những vẻ đẹp rực rỡ nhất.
Hãy cho những chú cừu ăn, tôi sẽ tìm cánh đồng không xa.
Cả hai bài thơ trên đều có cùng một chủ đề - tình yêu ở nước Anh. Tính chất giả tạo hoa mỹ và đầy kỹ thuật của bài thơ về tuổi trẻ của Pope đích thị là theo một phong cách kiểu Pháp của cái thời mà nó đã được hình thành, trong thời đại trước thời vua Louis XV. Một vài năm sau, Hogarth đã nhạo báng thói bắt chước những thời trang Pháp của người Anh. Vào khoảng giữa thế kỷ, thời gian này kiểu cách của triều đại vua Louis XV đã bị hạn chế bớt, phong cách Pháp đã bắt đầu chi phối các phong cách cư xử của người Anh như nó đã chi phí phong cách cư xử phần còn lại của Châu Âu; và đặc tính quốc gia của người Anh - tối thiểu là trong tầng lớp thượng lưu - đã thay đổi để thích hợp với chủ nghĩa quốc tế mới này.
Sự thay đổi này đã được phản ảnh qua các bức tranh chân dung. Có nhiều sự khác nhau giữa những người mẫu của Gainborough và Hogarth cũng như có nhiều sự khác nhau giữa những người mẫu của Hogarth và Van Dyke. Những chủ đề của Hogarth là tầng lớp quý tộc tỉnh lẻ; còn chủ đề của Gainborough là “bon ton” của một thị trấn. Không giống những người mẫu của Hogarth, những người được Gainborough vẽ không bao giờ mang một nét kỳ cục nào. Tối đa là họ chỉ không được tự nhiên mà thôi. Đàn ông, khi họ xuất hiện trong tranh, trông rất khỏe mạnh, không có đồng bóng hay nghệ sĩ (mặc dù nhiều khách hàng của Gainborough, có lẽ để chứng tỏ rằng họ vừa hoàn thành một chuyến đi lớn (grand tour), đã biểu lộ một thái độ nhập nhằng đã bị Pháp hóa), tử tế, đối với phần lớn, và giỏi giang, nhưng không có sự say mê tri thức hay tôn giáo, và bị chỉ phối bởi những quy ước xã hội hơn bất kỳ sự ép buộc từ bên trong nào khác. Phụ nữ, để trích dẫn thơ của Pope một lần nữa, không có cá tính chút nào - ngờ nghệch, xinh đẹp, dễ bị chấn nản, đòi hỏi sự tăng bốc (giả dối một cách thái quả hơn, được tán thưởng hơn, là quan điểm của Chesterfield), về sinh lực và sự tự tin hơn là sự thông thái, và họ - nếu số lượng những bức tranh chân dung trẻ em mà họ cho vẽ không phải là bằng chứng - quản lý công việc nhà với một bàn tay sắt.
HAI CHỊ EM
SÓNG TO GIÓ LỚN Ở GALE
NỮ NAM TƯỚC BURDETT - COUTTS
TRẬN ĐÁNH CỦA COMTE DE GRASSES TẠI VỊNH FRIGATE 26/01/1972
TÀU ĐÁNH CÁ YARMOUTH
NGƯỜI MẪU BẰNG SƠN DẦU TRANH CỦA DUFLOS
BÌNH HOA CỦA NỮ HỌA SĨ NGƯỜI NGA MADAM KHITON HIỆN SỐNG Ở PARIS
Những người mẫu này đặt ra một vấn đề mới cho người họa sĩ : làm thế nào để vẽ họ với tất cả sự duyên dáng, phong cách tao nhã và quý tộc mà ý thích được hình thành từ ảnh hưởng của nước Pháp của họ đòi hỏi. Với mục đích này, phong cách vẽ tranh thẳng thắn, giai cấp tiểu tư sản, dân tỉnh lẻ mà Hogarth đã theo từ Hà Lan đã không đủ. Họ đòi hỏi phải thanh lịch và oai vệ hơn. Vì thế Gainborough đã đến Van Dyke và đến các họa sĩ của triều đình Pháp để học sự thanh lịch (tuy nhiên đến Pháp chỉ là trong tinh thần, còn thực tế là đến Luân Đôn nơi ông đã học hỏi với một họa sĩ Pháp và một người thợ chạm tên là Gravelot). Nhưng Reynolds đã thực sự đi đến Ý - tới gặp Raphael, Carracci, và Giulio Romano, để học phong cách quý tộc (noble). Ong đã quay trở về Anh với những chất liệu cho “những bài diễn thuyết” (Discourses) trứ danh của ông.
“Những bài diễn thuyết” của Reynolds có lẽ rất nổi tiếng, và tôi tin rằng càng ít đọc những bài này thì càng khó đọc được những cuốn sách viết về hội họa ở Anh. Chúng là những bài diễn thuyết bắt đầu cho các sinh viên hội họa của Học viện Hoàng gia mà Reynolds là chủ tịch đầu tiên. Chúng có lẽ đã quá hoa mỹ và mang tính tiên phong bởi chính Tiến sĩ Johnson, chúng đã ca ngợi những nhà chiết trung người Ý (Guido Reni, Carracci, và những người khác đã nghĩ đến việc tạo ra những bức tranh vĩ đại bằng một thủ thuật đơn giản là rút ra từ mỗi một họa sĩ vĩ đại nhất - theo họ là Michelangelo, Raphael và Leonardo - những phẩm chất tuyệt vời nhất của họa sĩ đó, và sau đó kết hợp chúng lại); và chúng ủng hộ tính tao nhã của các đường nét và sự đơn giản của màu sắc mà chính bản thân Reynolds chưa bao giờ từng có ý định làm theo - quá nhiều điều bực mình cho William Blake tội nghiệp.
Blake là một nhà văn có đạo đức và bí ẩn cực kỳ thú vị và là một nhà thơ tuyệt diệu. Nhưng là một họa sĩ thì ông ta chỉ là một người vẽ tranh minh họa bình thường để trang trí, và là một môn đệ của họa sĩ gốc Thụy Sĩ tên là Henry Fuseli. Sự đóng góp của Fuseli cho nền hội họa nước Anh là một sự thích nghi của các nhà kiểu cách người Ý - những môn đệ của Machaelangelo, Leonardo và Raphael - đối với phong cách Phục Hưng Hy Lạp. Có lẽ ví dụ quen thuộc nhất về phong trào Phục Hưng Hy Lạp trong hội họa là bức chân dung Madame Récamer chưa hoàn thành của David. Người phụ nữ trong tranh nằm trên một chiếc ghế dài bên cạnh một cây đèn đứng - cả hai thứ đồ gỗ đều được lấy từ những thứ mới được phục chế theo các kiểu cách trang trí trong Thành phố Pompeii của Percier và Fontaine - mặc một bộ quần áo trong suốt và bó sát người, gần như là một chiếc áo ngủ, bàn chân xinh đẹp của nàng để trần. Tất cả những điều này, đối với chúng ta là Directoire quá duyên dáng, là của David và công chúng Hy Lạp đích thực của ông. Đối với Blake và thời của ông, phong trào Phục hưng Hy Lạp là một phong trào tiến bộ, thậm chí, theo ý nghĩa chính trị trên thế giới, có thể gọi là một cuộc cách mạng. Tôi chỉ có thể cho rằng đó chính là một sự pha trộn buồn cười và không đồng nhất trong công việc của Blake - của chiếc ly đã ố của nước Anh, phong trào Phục Hưng Gothic, Michelangelo, Tranh khỏa thân lý tưởng (Ideal Nude) và Directoire - công việc đó đã duy trì, ít nhất là trong thế giới văn học, danh tiếng không xứng đáng của Blake với vai trò một họa sĩ.
Nhưng Blake là một nhà thơ và ông tin rằng những từ ngữ nên có một vài mối quan hệ thực sự với những thứ mà chúng được sử dụng để mô tả. Ông ta đã bị xúc phạm khi khám phá ra rằng thuật hùng biệc của Reynolds đã không có liên quan gì đến việc vẽ tranh của Reynolds. Ong đã bày tỏ một cách mạnh mẽ bên các lề của một bản in “Những bài diễn thuyết” sự bực tức của ông ta đối với tranh của Reynolds và sự tán thành các nguyên tắc của Reynolds. Reynolds, không phải là một người thuộc giới nhà văn và không thực sự tin tưởng vào ý nghĩa của các từ ngữ mà ông sử dụng, đã coi thường những nguyên tắc của chính mình và đã vẽ đẹp một cách dễ dàng. Blake làm theo những nguyên tắc của Reynolds một cách chính xác và rơi vào một bãi lầy của sự lập dị, sự hạn chế và thói kiểu cách. Thực thế, ông đã không rơi vào hội họa chút nào, nhưng kiên quyết đi vào các loại mỹ thuật và nghề thủ công.
Những lời dạy trong cuốn “Discourses” của Reynolds đã định rõ phong cách quý tộc. Chúng nói về sự đơn giản của màu sắc - sử dụng những màu đỏ, vàng, xanh da trời và xanh lá đơn giản - về sự tao nhã của những đường nét và cử chỉ, về tầm quan trọng của việc cách điệu hóa, hay sắc đẹp lý tưởng, trong đó người họa sĩ phải di chuyển cái liếc hay làm thẳng một chiếc mũi của người mẫu nhằm minh họa cho một nguyên tắc đạo đức.
Khi chính Reynolds làm theo phong cách quý tộc mà cuốn sách “Discourses" của ông chủ trương, thì ông cũng làm tệ như bất kỳ người nào khác. Những cuộc du hành của ông đi vào ý nghĩa ngụ ngôn rất ít, rụt rè và không thuyết phục. Bức tranh “Mrs Siddons as the Tragic Muse” (Bà Siddons như một nàng thơ bi kịch) vẫn là một nữ diễn viên, và "The Graces deco- rating Hymen" (Những nét duyên dáng trang điểm cho Thần hôn nhân ) mang nhiều nét nghiêm chỉnh hơn là cảm hứng. Những bức tranh chân dung do ông vẽ, mặt khác, là những bức tranh của những con người thực. Có lẽ đó là cái mà Reynolds thực sự muốn nói trong cuốn sách "Discourses" của ông - làm thể nào để mang phong cách quý tộc vào công việc để tạo ra nhân phẩm cho những người mẫu của ông. Ông ta, dù sao đi nữa, cũng chỉ là một trong những người thành công cùng thời với ông ta mà thôi. Gainsborough đã thêm trực tiếp vào cho những người mẫu của ông ta một sự ngụy biện nham hiểm của Versailles, một không khí xã hội, sự màu mè và những danh sách tiếp khách; Rommey là haut ton của một tạp chí thời trang; và Raebum và Lawrence với vẻ bề ngoài bóng lộn xuất hiện trong một mẩu quảng cáo người mới vừa mua một chiếc xe hơi. Gainsborough còn tài giỏi hơn Reynolds nhiều, Copley thì hoàn mỹ hơn, và Hogarth thì thú vị hơn về mọi mặt. Ngay cả kỹ thuật của Reynolds cũng bị mọi người cho là có thiếu sót từ William Blake, người đã khoác lác về tính tạm thời của nó ("Khi Sir Joshua Reynolds đã chết"/"Tất cả thiên nhiên đều đã bị làm giảm giá trị”/ “Vị vua nhỏ một giọt nước mắt trong tại của Hoàng hậu”Và tất cả tranh của ông ta đều đã phai mờ"), đến hôm nay những người phục chế than phiền về những lớp nước bóng, lớp sơn, những nét chấm sửa, và thí nghiệm thái quá lặp đi lặp lại của Reynolds trên những chất pha màu làm cho những bức tranh của ông trở nên cực kỳ khó lau sạch. Cũng không có bất kỳ một ảnh hưởng rõ rằng nào của Raphael, Guido Reni hay phong cách quí tộc trong tranh của Reynolds. Phong cách quý tộc là thời trang trịnh trọng của thời đại được các nhà thơ và nhà văn ngưỡng mộ, như phong cách trừu tượng ngày nay. Điều này đủ nói lên rằng Reynolds có thể viết trong sự ca tụng của nó và cũng đã không bị buộc phải thêm vào những cánh đồng cỏ nét ảm đảm và nét vẽ không tự nhiên mà phong cách quý tộc sinh ra - ví dụ như bức tranh “Cái chết của con sói” của Benjamin West với những điều vô lý như những lối sống vương giả, tính khéo léo và điệu bộ của người Ý được áp dụng cho người da đỏ, một vị tướng người Anh và một phong cảnh Canada. Nhưng nếu tranh của Reynold mang một ít phong cách quý tộc, thì tức là có một cái gì đó trong bức tranh mang phong cách “grand”, một kiểu cởi mở trung thực, một sự đơn giản và tính thẳng thắn của con người là những cái thật hiếm trong thế kỷ của phong cách Pháp.
Có lẽ đó là cuộc viếng thăm Ý của Reynold - nơi có nhiều loại hội họa hơn những kiểu văn học mà thời đó ngưỡng mộ - cái cho phép ông đi vòng qua phong cách Pháp và vẽ những con người thực sự của mình. Goya người Tây Ban Nha và John Singleton Copley người Mỹ cũng tìm được cách để tránh phong cách Pháp, nhưng hoàn toàn bằng phương pháp khác. Tôi nghĩ đó là bằng cách trở thành những anh chàng tỉnh lẻ và kết quả là không biết gì khá hơn.
Tây Ban Nha và Mỹ trong thế kỷ 18 là những quốc gia khó đến - Tây Ban Nha thậm chí còn khó khăn hơn Mỹ - và trong những tỉnh thành ở xa triều đình Pháp như thế này, sự tinh tế của phong vị Pháp đã bị thổi phồng hoặc bị phớt lờ. Thậm chí gần như nước Ý, những mệnh phụ tự cho phép họ tiêu pha phung phí vào trang phục bị cấm tại Versialles, nơi chiều cao của chiếc mũ và bề rộng của chiếc giỏ được quy định bởi nghi thức hoàng gia. Ở những quốc gia khó đến, thị hiếu thời trang khó được biết đến. Những khách hàng của tranh chân dung ở những nơi này sẽ không thể chia sẻ những quan điểm về ngoại hình thích hợp theo tiêu chuẩn Châu Âu, hay hiểu biết về những chi tiết mà sự thanh lịch này bao gồm. Một họa sĩ có trình độ luôn luôn hiếm ở các tỉnh. Sự hiếm hoi này tạo ra cho người họa sĩ uy quyền, và khách hàng của anh ta, những người không được hướng dẫn tốt, có thể sẽ chấp nhận những bản vẽ của anh mà không do dự. Một họa sĩ, để tự anh ta chọn, thì anh ta sẽ thích vẽ người mẫu như anh ta nhìn thấy hơn là như một ví dụ về một hình tượng lý tưởng về sự trong trắng hay sự lịch sự nào đó. Vì thế những bức tranh chân dung được vẽ ở tỉnh, thậm chí vào lúc ảnh hưởng của phong vị Pháp đang ở mức cao, thường tạo ra những bức tranh về những con người thú vị. Tuy nhiên, những bức chân dung tỉnh lẻ này có thể là được vẽ quá kỹ lưỡng. Ở những trung tâm lớn hơn, nơi có nhiều tranh và nhiều họa sĩ, ở đó phát triển một từ vựng tổng quát về hội họa mà dân chúng có thể hiểu và chấp nhận. Một họa sĩ không phải làm mọi thứ cho mỗi bức tranh để chứng tỏ khả năng của anh ta. Anh ta có thể tự cho phép mình những kiểu làm tắt, đề nghị những chi tiết anh ta không vẽ, và vẫn có thể hiểu được. Nhưng ở những tỉnh lẻ, nơi không có nhiều tranh được vẽ và được trưng bày, và đối với công chúng tỉnh lẻ thì không có thói quen ngắm tranh, người họa sĩ biết rằng mọi thứ trong bức tranh phải được giải thích rõ. Vì thế biểu hiện của một họa sĩ tỉnh lẻ là sự quá tỉ mỉ và những chi tiết dư thừa. Những chi tiết và sự trau chuốt dư thừa của những họa sĩ Anh quốc trước thời Raphael, và sự nổi tiếng ngay tức khắc của những bức tranh của họ vì nguyên nhân này, là kết quả trực tiếp của hoàn cảnh tại tỉnh lẻ của cả hội họa Anh cũng như công chúng Anh vào giữa thế kỷ 19. Cũng một chuyện như vậy có thể đã được nói đến về Grant Wood trong cảnh của nước Mỹ.
Copley chính là một họa sĩ tỉnh lẻ như vậy. Phong cách vẽ tranh của ông đã được hình thành tại Mỹ, nơi có rất ít họa sĩ. Sau đó ông đến sống tại Anh, ở đó có nhiều họa sĩ. Tại đó ông đã mở rộng phong cách của mình và từ bỏ tính cứng nhắc tỉnh lẻ và những chi tiết không cần thiết. Nhưng thái độ này đối với những người mẫu của ông ta, được hình thành mà không bị ảnh hưởng bởi triều đình Pháp, thì ông ta đã không thay đổi. Và mặc dù ông đã đi du hành trên khắp các nẻo đường từ một anh họa sĩ ngờ nghệch đến khi trở thành một trong những họa sĩ vẽ chân dung khéo léo và tinh vi nhất vào thời của ông, ông ta cũng chưa bao giờ từ bỏ thái độ khinh thường cố hữu và có tính chất tỉnh lẻ của mình đối với những sự tao nhã hợp thời trang của ngoại hình. Kết quả là những người trong tranh của Copley vẫn duy trì cho đến ngày này sự hiện hữu, sống động và thú vị.
Tranh của Goya, ngược lại, chưa bao giờ ngờ nghệch. Goya đã từng học ở Ý. Và nếu thời gian ở Tây Ban Nha của Goya là ở tỉnh lẻ, thì tranh ở Tây Ban Nha lại không có tính quê mùa đó. Tuy nhiên, sức mạnh tràn ngập của phong vị Pháp có thể đã không đi qua Pyrenees. Những người nông dân trong những bức tranh đầu tiên của Goya bận rộn với những công việc đồng áng rất được hâm mộ tại Versailles, như nông trại bò sữa và đàn cừu. Nhưng ngay cả sự cực kỳ hợp thời trang của công việc mà mình đang theo đuổi này cũng không thể tạo ra bất kỳ một sự khác biệt nào cho những cô gái vắt sữa bò của Goya và những cô gái chăn cừu so với những gì mà Goya thấy được từ họ, những người Tây Ban Nha bản xứ của của quê hương Tây Ban Nha của ông. Thực tế, tôi nghĩ có thể nói rằng toàn bộ ý kiến của chúng ta về Tây Ban Nha là đến từ những gì Goya thấy và vẽ. Chính là Goya mà chúng ta đã thấy trong những trang phục và những buổi lễ của trường đấu bò. Và Carmen đuợc sinh ra từ những tia nhìn đen tối của Nữ công tước xứ Alba, được sửa soạn bởi Goya như một phụ nữ của Madrid.
Những người này, trong Hogarth, Reynolds, Goya, Copley, đều là thực. Và đây là phong cách “grand”. Vì với phong cách “grand" có nghĩa là không có phong cách gì cả. Nó không phải là cách vẽ. Nó chỉ là vấn đề lớn nhất của người họa sĩ. Nó là cái mà mỗi họa sĩ phấn đấu để vẽ. Đó là quan điểm của người họa sĩ về thực tại cơ bản.