6/5/2017
Giáo dục STEM là phương thức giáo dục tích hợp Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học, giúp người học gắn lý thuyết với thực tế cuộc sống. STEM được đánh giá sẽ là mô hình giáo dục diện rộng trong tương lai gần của thế giới. Tại Việt Nam, giáo dục STEM đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo thí điểm đưa vào giảng dạy ở một số trường phổ thông, bước đầu đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Đây là một trong những việc chuẩn bị để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới mà Bộ đang xây dựng.
(Cuộc trao đổi với PGS.TS. Nguyễn Xuân Thành, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học, Bộ GD&ĐT)
Học sinh không phải “thợ” chế tạo theo mẫu
PV: Thưa PGS.TS Nguyễn Xuân Thành, mặc dù giáo dục STEM đã được triển khai thí điểm ở một số địa phương nhưng đến nay vẫn còn là một khái niệm mới mẻ. Ông có thể giới thiệu về hình thức giáo dục này?
PGS.TS Nguyễn Xuân Thành: Giáo dục STEM là phương thức giáo dục tích hợp (Khoa học - Công nghệ - Kĩ thuật - Toán) chứ không phải là một môn học, trong đó các bài học được xây dựng theo chủ đề STEM nhằm lồng ghép kiến thức Khoa học và Toán với các vấn đề trong Công nghệ và Kĩ thuật của thế giới thực.
Qua đó, học sinh vừa học được kiến thức khoa học, vừa học được cách vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn.
Trong mỗi bài học theo chủ đề STEM, học sinh được đặt trước một tình huống có vấn đề thực tiễn cần giải quyết liên quan đến các kiến thức khoa học cần dạy.
Để giải quyết vấn đề đó, học sinh phải tìm tòi, nghiên cứu những kiến thức thuộc các môn học có liên quan đến vấn đề đó (qua sách giáo khoa, học liệu, thiết bị thí nghiệm, thiết bị công nghệ) và sử dụng chúng để giải quyết vấn đề đặt ra.
Tóm lại, học sinh sẽ được học kiến thức gắn liền với những ứng dụng của nó trong công nghệ và kĩ thuật; vận dụng kiến thức học được để tiếp tục sáng tạo về khoa học, công nghệ và kĩ thuật.
Như vậy, giáo dục STEM sẽ giúp thực hiện được mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh đáp ứng yêu cầu mới.
Đồng thời đây cũng là sự chuẩn bị chủ động, tích cực của ngành giáo dục trước khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra.
PV: Có thể nói, giáo dục STEM sẽ giúp thực hiện mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh cũng như mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông mới. Vậy, kiến thức mà học sinh cần học để sử dụng giải quyết vấn đề trong giáo dục STEM thuộc những môn học nào trong Chương trình giáo dục phổ thông mới?
PGS.TS Nguyễn Xuân Thành: Kiến thức khoa học trong giáo dục STEM chủ yếu là kiến thức thuộc các môn khoa học tự nhiên.
Ở cấp tiểu học, các kiến thức này thuộc các môn: "Cuộc sống quanh ta", "Tìm hiểu tự nhiên", "Thế giới công nghệ", "Tìm hiểu công nghệ"; cấp trung học cơ sở thuộc môn: "Khoa học tự nhiên", "Công nghệ"; cấp trung học phổ thông thuộc các môn: "Vật lí", "Hóa học", "Sinh học", "Thiết kế và Công nghệ".
Kiến thức khoa học thuộc các môn học nói trên đều có ứng dụng phổ biến trong thực tiễn, vì vậy việc áp dụng phương thức giáo dục STEM sẽ rất thuận lợi và mang lại hiệu quả cao đối với sự phát triển năng lực của học sinh.
PV: Được biết, trong các bài học STEM, học sinh thường phải chế tạo một sản phẩm. Điều quan trọng nhất khi chế tạo các sản phẩm là gì, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Xuân Thành: Tuy mỗi bài học theo chủ đề STEM đều hướng tới một sản phẩm ứng dụng mà học sinh cần hoàn thành nhưng sản phẩm đó không phải là mục đích cuối cùng của bài học và không được đồng nhất giáo dục STEM với việc chế tạo sản phẩm đó.
Điều quan trọng nhất là học sinh phải biết vận dụng kiến thức khoa học để "thiết kế" rồi mới "thi công". Như thế, học sinh mới phát triển được các năng lực cần thiết của một "kĩ sư" chứ không phải là "thợ" chế tạo sản phẩm theo mẫu.
PV: Để làm được điều đó, cần có yêu cầu gì đối với giáo viên và học sinh trong cách dạy và học?
PGS.TS Nguyễn Xuân Thành: Trong giáo dục STEM cũng như các phương thức giáo dục tích cực khác, giáo viên đóng vai trò là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh; học sinh tích cực, tự lực hoạt động học để chiếm lĩnh kiến thức và thực hành vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn.
Chẳng hạn, theo nguyên tắc dạy học gắn kiến thức khoa học với ứng dụng của nó, có thể xây dựng bài học theo chủ đề STEM để dạy học về Nguyên lí nhiệt động lực học (Vật lí) gắn với cấu tạo và hoạt động của máy lạnh và động cơ nhiệt (Công nghệ); dạy học kiến thức về dòng điện (Vật lí) gắn với các ứng dụng của nó trong mạng điện gia đình hay cấu tạo và hoạt động của máy phát điện, động cơ điện (Công nghệ); dạy học về dòng điện trong chất điện phân (Vật lí và Hóa học) gắn với công nghệ mạ điện, đúc điện (Công nghệ)…
Tương tự như thế, có thể tìm thấy rất nhiều kiến thức trong các môn học thuộc Chương trình giáo dục phổ thông mới mà tôi đã nêu ở trên cùng những ứng dụng của chúng trong thực tiễn để xây dựng các chủ đề giáo dục STEM.
Giáo viên cần có khả năng xây dựng các chủ đề gắn với thực tiễn
PV: Hiện nay, một số trường ở Hà Nội đã áp dụng mô hình giáo dục STEM rất hiệu quả. Ngoài các trường ở Hà Nội, hiện nay, giáo dục STEM được triển khai ở những địa phương nào thưa ông và kết quả đạt được ra sao?
PGS.TS Nguyễn Xuân Thành: Có thể nói, việc dạy học theo định hướng STEM đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo từ nhiều năm trước thông qua việc dạy học theo chủ đề "Tích hợp, liên môn".
Theo đó, giáo viên, tổ/nhóm chuyên môn được giao quyền chủ động xây dựng các chủ đề dạy học tích hợp, liên môn gắn với các vấn đề thực tiễn. Đã có nhiều chủ đề dạy học theo hướng trên được giáo viên xây dựng và thực hiện một cách có hiệu quả.
Từ năm học 2013 - 2014, hằng năm có trên 3000 bài học theo chủ đề tích hợp, liên môn do giáo viên thực hiện và dự thi “Dạy học theo chủ đề tích hợp dành cho giáo viên trung học”. Trong đó, nhiều chủ đề thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên đã được thực hiện theo định hướng STEM.
Nhằm chuẩn bị tốt hơn cho việc thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới, trong năm học 2016 - 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thí điểm phương thức giáo dục STEM tại 15 trường THCS và THPT tại 5 tỉnh: Hà Nội, Hải Dương, Hòa Bình, Quảng Ninh, Nam Định.
Hơn 50 chủ đề dạy học theo định hướng STEM đã được các nhà trường xây dựng và thực hiện với kết quả tích cực.
PV: Giáo dục STEM đòi hỏi nhiều về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên có kinh nghiệm và sáng tạo. Được biết, Bộ GD&ĐT dự kiến sẽ triển khai đại trà giáo dục STEM ở tất cả các địa phương. Với điều kiện của chúng ta hiện nay, liệu rằng có thể thực hiện mong muốn này?
PGS.TS Nguyễn Xuân Thành: Khó khăn nhất không nằm ở cơ sở vật chất, thiết bị dạy học mà là ở đội ngũ giáo viên.
Trước hết, để thực hiện thành công cần phải nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên để mỗi giáo viên đều có nhận thức đúng, có khả năng xây dựng và thực hiện các chủ đề dạy học phù hợp với điều kiện thực tiễn và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có sự chuẩn bị từ nhiều năm qua như đã nói ở trên.
Còn về thiết bị dạy học thì trong các bài học theo phương thức giáo dục STEM, học sinh vẫn chủ yếu sử dụng các thiết bị dạy học hiện có trong các nhà trường để tiến hành các thí nghiệm, tìm tòi nghiên cứu để khám phá kiến thức khoa học, rèn luyện kĩ năng.
Chẳng hạn, chỉ với các dụng cụ đơn giản như bóng đèn, các linh kiện điện tử sẵn có, học sinh đã có thể tiến hành các thí nghiệm về dòng điện hay chế tạo các thiết bị điện tử đơn giản theo mục tiêu của bài học STEM.
Tất nhiên, việc tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị luôn cần thiết nhằm hướng tới chất lượng giáo dục cao hơn. Song, chúng tôi cũng cũng lưu ý rằng chính những thiết bị sẵn có trong thực tiễn với vai trò là địa chỉ ứng dụng của kiến thức khoa học mà học sinh cần tìm tòi, khám phá lại là những thiết bị dạy học sinh động, thiết thực nhất đối với giáo dục STEM, cần được nghiên cứu để khai thác sử dụng một cách phù hợp và hiệu quả.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
29/04/2017
Đó là nhấn mạnh của Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ với Ban soạn thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể tại cuộc họp Ban chỉ đạo đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới đây.
Tại cuộc họp, Bộ trưởng đánh giá cao sự nỗ lực, cố gắng của Ban soạn thảo trong quá trình xây dựng dự thảo. Kết quả của sự nỗ lực đó đã được thể hiện qua những đánh giá tích cực từ dư luận xã hội về những điểm mới, điểm ưu việt của dự thảo chương trình tổng thể như: tính kế thừa và tính hội nhập; chuyển từ giáo dục tiếp cận nội dung sang giáo dục hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực người học và xây dựng nền giáo dục theo hướng mở; đưa ra được “chân dung” người học sinh mới; phân biệt rõ giữa giai đoạn giáo dục cơ bản và giáo dục định hướng nghề nghiệp; tăng cường tính tự chủ cho các địa phương, các cơ sở giáo dục, cho người dạy và người học,…
Tuy nhiên, bên cạnh những ý kiến đồng thuận vẫn còn những ý kiến băn khoăn, thậm chí trái chiều về một số nội dung của dự thảo chương trình tổng thể. Trước những luồng ý kiến này, Bộ trưởng cho rằng, đổi mới chương trình sách giáo khoa là nhiệm vụ rất lớn và phức tạp, đòi hỏi quá trình tiến hành công phu cũng như tinh thần cầu thị, lắng nghe một cách tích cực, do vậy những ý kiến phản biện trái chiều là bình thường và cần thiết trong quá trình hoàn thiện dự thảo.
Bộ trưởng đề nghị Ban soạn thảo nghiêm túc tiếp thu tất cả các ý kiến, trong đó những ý kiến đúng, phù hợp phải được bổ sung, hoàn thiện trong dự thảo, những nội dung xét thấy chưa phù hợp cũng cần được giải trình sao cho xã hội hiểu đúng và đồng thuận.
Cho đến thời điểm này, dự thảo chương trình tổng thể đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ các nhà khoa học, các nhà quản lý đã và đang công tác trong ngành Giáo dục, các thầy giáo, cô giáo và các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, theo Bộ trưởng, ý kiến của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục tại cơ sở, đội ngũ giáo viên - những người quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới chương trình giáo dục phổ thông vẫn còn thiếu và chưa đi sâu vào các nội dung cụ thể.
“Tôi đề nghị Ban soạn thảo cần chủ động xin ý kiến đóng góp của các thầy giáo, cô giáo, các nhà quản lý giáo dục đang công tác tại các địa phương, các cơ sở giáo dục trong cả nước. Dự thảo đã đưa ra nhiều điểm mới, điểm tốt nhưng dù mới, dù tốt đến đâu cũng phải phù hợp với địa phương, vì vậy, ý kiến từ địa phương, từ cơ sở, từ những người trực tiếp triển khai thực hiện là vô cùng quan trọng. Đồng thời, Ban soạn thảo cũng cần có kênh tiếp thu ý kiến của học sinh, phụ huynh học sinh và các đối tượng có liên quan. Với tính chất quan trọng của chương trình, tôi đề nghị Ban soạn thảo lùi thời gian xin ý kiến để giáo viên, học sinh và người dân có thêm thời gian tham gia góp ý cho dự thảo” - Bộ trưởng nhấn mạnh.
Để việc góp ý cho dự thảo chương trình tổng thể đạt hiệu quả cao, Bộ trưởng yêu cầu Ban soạn thảo xây dựng đề cương góp ý, trong đó tập trung vào những nội dung cần xin ý kiến sâu như mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông; phẩm chất, năng lực cần hình thành và phát triển cho học sinh; tính kế thừa từ chương trình hiện hành; định hướng hội nhập; thời lượng các môn học; việc lựa chọn các môn học; điều kiện thực hiện chương trình, đặc biệt là đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
15/04/2017
Ngày 12/4, Bộ GD&ĐT tổ chức họp báo giới thiệu về bản Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể để xin ý kiến toàn thể nhân dân trước khi ban hành chính thức vào cuối năm 2017
Việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông được thực hiện theo quy định của Luật Giáo dục và pháp luật liên quan. Trước khi công bố dự thảo chương trình tổng thể để lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân một lần nữa, Bộ GD&ĐT đã tổ chức các hội thảo, tiếp thu ý kiến từ nhiều cơ quan, nhiều nhà khoa học, cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên và chuyên gia tư vấn quốc tế. Chương trình cũng đã được Hội đồng Quốc gia Thẩm định chương trình giáo dục phổ thông thẩm định lần thứ nhất.
Chương trình giáo dục phổ thông được xây dựng trên cơ sở quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; gắn với nhu cầu phát triển của đất nước và những tiến bộ của thời đại về khoa học - công nghệ và xã hội; phù hợp với đặc điểm con người, văn hóa Việt Nam, các giá trị truyền thống của dân tộc và những giá trị chung của nhân loại cũng như các sáng kiến và định hướng phát triển chung của UNESCO về giáo dục; tạo cơ hội bình đẳng về quyền được bảo vệ, chăm sóc, học tập và phát triển, quyền được lắng nghe, tôn trọng và được tham gia của học sinh; đặt nền tảng cho một xã hội nhân văn, phát triển bền vững và phồn vinh.
Chương trình giáo dục phổ thông bảo đảm kế thừa và phát triển những ưu điểm của các chương trình giáo dục phổ thông đã có của Việt Nam, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm xây dựng chương trình của những nền giáo dục tiên tiến trên thế giới; bảo đảm kết nối chặt chẽ giữa các lớp học, cấp học với nhau và liên thông với chương trình giáo dục mầm non, chương trình giáo dục nghề nghiệp và chương trình giáo dục đại học.
Để hoàn thiện nội dung, Bộ GD&ĐT đề nghị các sở giáo dục và đào tạo, các trường đại học, cao đẳng sư phạm, các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục và cá nhân nghiên cứu, góp ý cho dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.
Các ý kiến góp ý xin gửi về Bộ GD&ĐT trước ngày 29 tháng 4 năm 2017, theo địa chỉ: Ban Quản lý dự án Hỗ trợ đổi mới giáo dục phổ thông (Bộ Giáo dục và Đào tạo), số 35 Đại Cồ Việt, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội; hoặc gửi trực tiếp theo địa chỉ thư điện tử: rgep@moet.gov.vn.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
10/04/2017
Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa chính thức ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ. Quy chế này có hiệu lực từ 18 tháng 5 năm 2017, thay thế quy chế ban hành năm 2009 và được sửa đổi, bổ sung năm 2012.
Tuyển sinh tiến sĩ có thể tổ chức từ một đến nhiều lần trong năm
Quy chế nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo trình độ tiến sĩ ở trong nước, tạo điều kiện hội nhập với đào tạo trình độ tiến sĩ của khu vực và thế giới; phát huy tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học căn cứ vào điều kiện đặc thù của từng trường và từng ngành; tăng cường trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch toàn bộ quá trình đào tạo tiến sĩ nhằm tạo lập niềm tin của xã hội, của nhà tuyển dụng, người sử dụng lao động về chất lượng tiến sĩ sau khi tốt nghiệp.
Theo đó, quy chế mới có cấu trúc ngắn gọn, là những quy định khung (quy định tối thiểu), trên cơ sở đó, các cơ sở đào tạo tiến sĩ phải xây dưng quy định chi tiết phù hợp với điều kiện của từng trường, với yêu cầu cụ thể của từng ngành đào tạo nhưng không được thấp hơn những quy định của quy chế này để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống cũng như "danh tiếng, tên tuổi" của từng cơ sở đào tạo trong tuyển chọn, đào tạo và cấp bằng tiến sĩ.
Quy chế mới đã thay đổi những quy định về người dự tuyển, nghiên cứu sinh, giảng viên, người hướng dẫn, tuyển sinh, quy trình tổ chức đào tạo, bảo vệ luận án tiến sĩ, gia hạn, thẩm định và cấp bằng so với những quy định của các quy chế trước, tạo điều kiện cho việc quản lý và giám sát quá trình đào tạo của cơ sở đào tạo các các cơ quan chức năng có thẩm quyền theo hướng cải cách hành chính, giảm nhiều thủ tục rườm rà, những quy định mang tính hình thức, giảm thiểu thủ tục hành chính theo Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 17/3/2016 phê duyệt phương án đơn giản hóa đối với nhóm thủ tục hành chính quy định liên quan đến tuyển sinh, đào tạo trình độ tiến sĩ của Thủ tướng Chính phủ.
Bên cạnh quy định thủ trưởng cơ sở đào tạo tiến sĩ được quyết định lựa chọn phương thức tuyển sinh phù hợp (thi tuyển, xét tuyển hoặc kết hợp cả hai) hay việc tuyển sinh tiến sĩ giờ có thể tổ chức từ 01 đến nhiều lần trong năm, quy chế mới đã nâng cao những quy định về trình độ ngoại ngữ, minh chứng về khả năng, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học đối với ứng viên dự tuyển, nghiên cứu sinh, giảng viên và người hướng dẫn so với những quy định trước đây.
Trình độ ngoại ngữ đầu vào đạt chuẩn nhất định
Ở quy chế này, ngoại ngữ được xác định là công cụ hỗ trợ không thể thiếu cho nghiên cứu sinh trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học. Vì vậy, ứng viên dự tuyển phải có trình độ ngoại ngữ đầu vào (đặc biệt là tiếng Anh) đạt chuẩn ở mức độ nhất định để đảm bảo có thể nghiên cứu, tham khảo tài liệu của nước ngoài trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và hoàn thiện luận án. Ngoài ra, quy chế cũng yêu cầu nghiên cứu sinh phải công bố kết quả nghiên cứu của luận án trong các tạp chí khoa học thuộc danh mục các tạp chí ISI-Scopus hoặc báo cáo trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện hoặc trong các tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện trước thời điểm luận án được thông qua ở đơn vị chuyên môn.
Về tiêu chuẩn của giảng viên và người hướng dẫn, quy chế mới quy định giảng viên giảng dạy các học phần trong chương trình đào tạo tiến sĩ phải đã hoặc đang chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở trở lên hoặc đã và đang tham gia các nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp bộ trở lên; còn người hướng dẫn phải đã hoặc đang chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở trở lên. Minh chứng về nghiên cứu khoa học của người hướng dẫn còn phải thể hiện ở việc họ là tác giả chính của các bài báo hoặc công trình công bố trong các tạp chí thuộc danh mục các tạp chí ISI -Scopus hoặc một chương sách tham khảo có mã số ISBN của các nhà xuất bản nước ngoài phát hành hoặc trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện.
Quy chế cũng quy định người hướng dẫn độc lập phải là cán bộ cơ hữu của cơ sở đào tạo hoặc là nhà khoa học người nước ngoài, nhà khoa học Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài có hợp đồng giảng dạy, nghiên cứu khoa học với cơ sở đào tạo. Mỗi nghiên cứu sinh sẽ có tối đa hai người hướng dẫn, trong đó ít nhất phải có một người là giảng viên, nghiên cứu viên cơ hữu của cơ sở đào tạo. Tiêu chuẩn người hướng dẫn chính và người hướng dẫn phụ cũng được quy định rõ trong trường hợp đồng hướng dẫn.
Tổng thời gian đào tạo tiến sĩ trong quy chế mới được quy định theo Luật giáo dục đại học, phù hợp với Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1981/QĐ-TTg ngày 18 tháng 10 năm 2016, đảm bảo nghiên cứu sinh hoàn thiện được khối lượng học tập tối thiểu và chuẩn đầu ra đạt Bậc 8 của Khung trình độ quốc gia ban hành kèm theo Quyết định số 1982/QĐ-TTg ngày 18 tháng 10 năm 2016 của Thủ tướng chính phủ. Việc tổ chức đào tạo tiến sĩ được triển khai theo hình thức giáo dục chính quy, nghiên cứu sinh phải dành ít nhất 12 tháng theo học tập trung liên tục tại cơ sở đào tạo trong giai đoạn 24 tháng đầu, kể từ khi có quyết định công nhận nghiên cứu sinh.
Để đảm bảo cho những cá nhân có mong muốn theo học ở trình độ tiến sĩ có thời gian chuẩn bị về chuyên môn và ngoại ngữ cũng như các cơ sở đào tạo tiến sĩ phải có hướng đầu tư các điều kiện đảm bảo chất lượng (về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực) thực hiện những thay đổi nói trên, quy chế đào tạo tiến sĩ mới có điều khoản chuyển tiếp quy định lộ trình công bố quốc tế đối với cả người hướng dẫn và nghiên cứu sinh theo hai giai đoạn: từ khi quy chế có hiệu lực đến hết 31/12/2018 và từ sau ngày 01/01/2019 cả đối với những nhóm ngành có tính hội nhập cao và với nhóm chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố kính tế, chính trị, văn hoá và xã hội đặc thù của Việt Nam.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
(07/04/2017)
Tổng số trường đã hoàn thành báo cáo tự đánh giá : 245, trong đó:
- Trường đại học, học viện : 212 (35 trường được tổ chức kiểm định chất lượng đánh giá ngoài trong đó có 20 trường được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng)
- Trường cao đẳng, trung cấp sư phạm : 33
Chi tiết: Tải về
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
(05/04/2017)
Đây là những thay đổi căn bản nhằm đẩy mạnh đổi mới và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời cũng là cách truyền thông mạnh mẽ nâng cao nhận thức về Giáo dục nghề nghiệp (GDNN), qua đó thu hút học sinh, sinh viên (HSSV) tham gia học nghề.
Trên 70% sinh viên ra trường có việc làm
Theo Tổng cục Dạy nghề (Bộ LĐ-TB&XH) kết quả tuyển sinh học nghề năm 2016 đạt được 2.367.654 người, trong đó: Trình độ cao đẳng và cao đẳng nghề là241.411 sinh viên (cao đẳng đạt 149.852 sinh viên và cao đẳng nghề là 91.559 sinh viên, chiếm 10,2% so với tổng số tuyển sinh năm 2016). Trình độ trung cấp nghề và trung cấp chuyên nghiệp là 290.231 học sinh (trung cấp nghề là 147.096 học sinh; trung cấp chuyên nghiệp là 143.135 học sinh) chiếm 12,3%. Trong đó, học sinh tốt nghiệp THCS vào học trung cấp nghề và trung cấp chuyên nghiệp là 116.222 học sinh, chiếm 40% so với tổng số học sinh vào học trung cấp nghề và trung cấp chuyên nghiệp.
Kết quả tốt nghiệp năm 2016 bao gồm cả cao đẳng, cao đẳng nghề, trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp, sơ cấp nghề, dạy nghề dưới 3 tháng đạt 1.974.193 người, trong đó, trình độ cao đẳng và cao đẳng nghề là 172.051 sinh viên chiếm 8,7% so với tổng số người tốt nghiệp các cấp. Tỷ lệ sinh viên cao đẳng nghề ra trường có việc làm đạt 69 %, trung cấp nghề đạt 72%.
Về tiền lương, thu nhập của học viên qua đào tạo nghề: Mức lương khởi điểm bình quân của sinh viên cao đẳng nghề sau tốt nghiệp đạt 4,2 triệu đồng/tháng, trung cấp nghề sau tốt nghiệp đạt 3,6 triệu đồng/tháng. Một số nghề có mức lương khá cao, như nghề: Điều khiển phương tiện thủy nội địa (7 triệu); Vận hành cần, cẩu trục (4 - 7 triệu)...
Năm 2017, kế hoạch tuyển sinh GDNN là 2,2 triệu người, trong đó: Tuyển sinh trình độ cao đẳng và trung cấp là 540.000 người; trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng là 1,66 triệu người (hỗ trợ dạy nghề cho lao động nông thôn theo chính sách của Quyết định số 1956/QĐ-TTg là 600.000 người; trong đó hỗ trợ dạy nghề cho người khuyết tật khoảng 20.000 người).
Thời lượng thực hành tối thiểu là 50%
Năm nay, một số thay đổi khiến nhiều trường quan tâm, trong đó có việc đăng ký hoạt động GDNN bao gồm cả chuyển đổi và đăng ký bổ sung; chuyển đổi chương trình đào tạo theo quy định mới của Bộ LĐ-TB&XH, cụ thể quy định tối thiểu 60 tín chỉ và thời lượng thực hành tối thiểu là 50%. Sự thay đổi này được xem là hợp lý, nhưng sẽ có nhiều trường gặp khó khăn trong việc cân đối lại chương trình đào tạo và đầu tư thêm thiết bị thực hành.
Một vấn đề khác không kém phần quan trọng là việc làm cho HSSV sau học nghề, đây là yếu tố có tác động mạnh mẽ đến công tác tuyển sinh. HSSV học nghề, ra trường có việc làm ngay, chính là cách truyền thông hiệu quả nhất để từ đó thu hút và nâng cao chất lượng tuyển sinh.
Để làm được việc này, các chuyên gia cho rằng, các trường phải tập trung nâng cao chất lượng đào tạo đi đôi với đầu tư trang thiết bị, máy móc thực hành đào tạo. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo đều rất cần có dự báo chính xác về nhu cầu nhân lực các ngành nghề để đào tạo phù hợp với thị trường lao động, tránh dư thừa nhân lực.
Tổng Cục trưởng Tổng cục Dạy nghề, TS Nguyễn Hồng Minh cho biết, thúc đẩy công tác tuyển sinh học nghề, phải tăng cường công tác tuyên truyền, truyền thông cho công tác tuyển sinh; chủ động tuyên truyền, hình thành mạng lưới công tác tuyển sinh để làm thay đổi nhận thức về GDNN đến từng cá nhân, tổ chức. Các sở LĐ-TB&XH cần kết nối với các trường trên địa bàn cùng thực hiện công tác tuyên truyền tuyển sinh. Tập trung tuyên truyền chính sách miễn giảm học phí cho người học nghề. Làm tốt công tác phân luồng học sinh sau THCS vào học nghề. Các trường cần phải tập trung các biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo, chú trọng gắn đào tạo với doanh nghiệp và giải quyết việc làm cho sinh viên sau đào tạo. Hiệu trưởng phải cam kết việc làm sau tốt nghiệp cho người học.
Theo TS Nguyễn Hồng Minh, Tổng cục Dạy nghề sẽ kiến nghị các bộ, ngành liên quan kịp thời thông tin về nhu cầu nhân lực, bảo đảm dự báo kịp thời nhu cầu đào tạo theo từng trình độ, ngành nghề, giúp các trường xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực phù hợp và đảm bảo tốt cơ hội giải quyết việc làm cho người học sau tốt nghiệp.
Nguồn: Báo Giáo dục & Thời đại
(02/04/2017)
Cổng thông tin tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo tích hợp các thông tin liên quan đến công tác chỉ đạo điều hành, cơ sở dữ liệu về kết quả kỳ thi THPT quốc gia, đề án tuyển sinh và điều kiện xét tuyển của các trường, hệ thống nhập dữ liệu thống kê nguyện vọng của thí sinh và các thông tin cần thiết khác theo Quy chế thi THPT quốc gia và Quy chế tuyển sinh năm 2017. Đây là nơi cung cấp thông tin tuyển sinh công khai, chính thức với dữ liệu cập nhật, chính xác nhất từ các trường. Hiện tại đã có trên 300 cơ sở đào tạo đại học và các trường cao đẳng sư phạm công khai Đề án tuyển sinh năm 2017 trên cổng thông tin này.
Cổng thông tin tuyển sinh năm nay được triển khai trên diện rộng, nhằm mang đến sự tiện lợi cho thí sinh trong việc truy cập, tìm kiếm, tra cứu thông tin, từ đó chọn lựa các chương trình học, đăng ký và sắp xếp nguyện vọng phù hợp với mong muốn và định hướng của bản thân.
Để có thể tra cứu được chính xác thông tin cần tìm, thí sinh cần thao tác 3 bước như sau:
Bước 1: Truy cập vào Cổng thông tin tuyển sinh của Bộ GDĐT tại địa chỉ: https://thituyensinh.vn
Bước 2: Gõ mã trường hoặc tên trường hoặc tên ngành cần tìm vào ô “Tìm kiếm”, sau đó bấm phím Enter hoặc nút “Tìm kiếm”. Ngay lập tức, danh sách các cơ sở đào tạo cần tìm sẽ được liệt kê lên màn hình.
Bước 3: Muốn xem thông tin một cơ sở đào tạo nào thì chỉ cần bấm nút chuột trái vào tên cơ sở đào tạo đó. Từ đây, thí sinh có thể tra cứu các thông tin chi tiết liên quan đến kỳ thi tuyển sinh năm 2017 của nhà trường.
Ngoài các thao tác như trên, đội ngũ hỗ trợ kỹ thuật của Cổng thông tin tuyển sinh cũng luôn luôn thường trực, sẵn sàng hỗ trợ tối đa thí sinh và phụ huynh trong quá trình tìm hiểu và tra cứu thông tin phục vụ đăng ký dự thi đại học, cao đẳng năm nay.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
27/3/2017
GD&TĐ - Bộ GD&ĐT đã ban hành kế hoạch triển khai công tác kiểm định chất lượng giáo dục (KĐCLGD) đối với cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng sư phạm và trung cấp sư phạm năm 2017.
Theo đó, trong năm 2017, các tổ chức KĐCLGD phải hoàn thiện bộ máy tổ chức, phát triển đội ngũ kiểm định viên đảm bảo đủ năng lực, triển khai KĐCLGD cơ sở giáo dục và chương trình đào tạo theo kế hoạch của Bộ. Xây dựng kế hoạch phát triển tổ chức theo hướng chuyên nghiệp, tăng cường gắn kết với hoạt động của các tổ chức đánh giá, KĐCLGD quốc tế.
Đồng thời thực hiện nghiêm việc công khai kết quả kiểm định, công khai minh bạch các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục, báo cáo về Bộ theo quy định; tham gia tư vấn các chính sách đảm bảo chất lượng và thực hiện tốt cơ chế giám sát chất lượng.
Các cơ sở đào tạo tập trung xây dựng hoặc rà soát kế hoạch phát triển trường giai đoạn 2017 - 2020; xây dựng kế hoạch đảm bảo chất lượng hằng năm của nhà trường và triển khai thực hiện kế hoạch đã đề ra. Kiện toàn đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng giáo dục. Cử người tham dự đầy đủ các khóa hội thảo, tập huấn do Bộ tổ chức. Triển khai tốt việc tập huấn lại cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên, người học của đơn vị mình.
Căn cứ điều kiện của đơn vị, các đơn vị chủ động công khai minh bạch các điều kiện đảm bảo chất lượng của nhà trường theo hướng dẫn của Bộ trước kỳ tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2017, tạo điều kiện cho thí sinh và xã hội lựa chọn được trường phù hợp để đăng ký theo học.
Đối với các trường chưa đăng ký đánh giá ngoài thì cần có giải pháp đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác tự đánh giá, khẩn trương rà soát, hoàn thiện báo cáo tự đánh giá, đăng ký với các tổ chức KĐCLGD (trước ngày 30/6/2017) và chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho hoạt động đánh giá ngoài; triển khai các giải pháp cải tiến nâng cao chất lượng giáo dục theo các kết quả tự đánh giá.
Đối với các trường đã được đánh giá ngoài nhưng chưa đủ điều kiện để được công nhận đạt kết quả KĐCLGD: Tập trung khắc phục hạn chế, cải tiến chất lượng ở các tiêu chí chưa đạt, phát huy những tiêu chí đã làm tốt.
Đối với các trường đã được đánh giá ngoài và đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục: Tiếp tục cải tiến nâng cao chất lượng đào tạo, thực hiện báo cáo giữa kỳ theo quy định; đẩy mạnh việc đăng ký kiểm định chất lượng chương trình đào tạo trong nước và quốc tế; nghiên cứu bộ tiêu chuẩn đánh giá cơ sở giáo dục đại học mới để chuẩn bị các điều kiện cho đánh giá vào chu kỳ tiếp theo; khuyến khích việc đăng ký đánh giá thêm (trong chu kỳ này) theo bộ tiêu chuẩn mới hoặc theo tiêu chuẩn của các tổ chức KĐCLGD quốc tế và khu vực có uy tín.
Nguồn: Báo Giáo dục & Thời đại
(14/03/2017)
GD&TĐ - “Hãy xác định sứ mệnh của nhà trường một cách rõ ràng trong tiến trình phát triển để nắm lấy cơ hội. Khi chúng ta có chiến lược phát triển đúng đắn, có tầm nhìn rõ ràng, hướng đến việc trở thành biểu tượng văn hóa của địa phương, các đồng chí sẽ thành công”.
Đó là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ gửi đến Ban Giám hiệu Trường ĐH Bà Rịa - Vũng Tàu trong buổi thăm và làm việc với trường sáng 14/3.
Cần có chiến lược và tầm nhìn dài hơi
Tại buổi làm việc, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đánh giá, mô hình “Trường trong Doanh nghiệp” như Trường ĐH Bà Rịa - Vũng Tàu là một hướng đi đúng, không chỉ giúp cho nhà trường có điều kiện gắn đào tạo với ứng dụng mà còn mang đến cho SV, giảng viên nhiều hơn cơ hội được cọ xát. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển cần hết sức bài bản, cẩn trọng và tránh rơi vào “cái bẫy” của sự thành công nhanh chóng.
Nâng cao chất lượng là điều kiện để thành công
Để xây dựng và định hình được giá trị học thuật của một trường ĐH, tất nhiên yếu tố chất lượng và đội ngũ phải là điều kiện tiên quyết. Theo Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ, chính thầy cô là những người tạo ra chất lượng, mang lại các giá trị bền vững cho cơ sở đào tạo.
“Việc xây dựng một môi trường văn hóa làm việc trong trường ĐH rất quan trọng. Với kinh nghiệm là người làm quản lý nhiều năm, tôi nhận thấy khi chúng ta thực hiện tốt việc chăm lo đời sống cho đội ngũ, công tác bồi dưỡng chuyên môn tốt, tất yếu chất lượng sẽ được nâng cao, từ đó chúng ta sẽ có một trường ĐH tốt.
Gắn việc đào tạo với hướng đi riêng của nhà trường
Nói về lộ trình phát triển, Bộ trưởng nhận định không nhiều cơ sở đào tạo ĐH ở nước ta có được lợi thế lớn như Trường ĐH Bà Rịa - Vũng Tàu, khi lợi thế cạnh tranh lớn, nhu cầu nhân lực của địa phương rất cao.
Bên cạnh đó, lãnh đạo địa phương cũng rất trông cậy vào trường trong việc cung ứng nguồn lao động chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương.
Từ những lợi thế như vậy, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho rằng Trường ĐH Bà Rịa - Vũng Tàu cần nhanh chóng rà soát lại toàn bộ chương trình, các ngành nghề mà trường đang đào tạo, để sớm định hình cho mình những ngành nghề trọng điểm cho kinh tế vùng.
Trong đó, việc khảo sát nhu cầu các loại hình nhân lực địa phương cần, nhu cầu thị trường đang đòi hỏi gắn với đào tạo sẽ giúp trường định hướng cho mình được ngành nghề đặc thù, mang sắc thái riêng của nhà trường.
Bộ trưởng cũng gợi ý trường nên mạnh dạn nghĩ đến hướng nhập khẩu toàn bộ chương trình từ nước ngoài, sau đó giao cho đội ngũ giảng viên, nhà khoa học trong trường nghiên cứu, thành lập tổ bộ môn để thực hiện việc nghiên cứu, chuyển giao.
Làm theo hướng này, tin rằng sau một thời gian trường sẽ có một số ngành đặc thù cho riêng mình, hệ thống hay xã hội sẽ nhận diện ngành nghề của trường, qua đó tạo nên thương hiệu của trường.
“Với cách làm trên, đi từng bước chậm - chắc, tôi tin trường sẽ tạo được sự khác biệt” - Bộ trưởng nhấn mạnh.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
(10/03/2017)
Sáng 10/3, Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải đã tổ chức lễ công bố quyết định công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học và trao giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục cấp cơ sở giáo dục.
Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải với quy mô gần 3000 sinh viên, học viên chính quy được tuyển sinh hàng năm theo học ở 8 chuyên ngành sau đại học và 22 chuyên ngành đại học.
Năm 2012, Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải đã thành lập hội đồng tự đánh giá lần thứ nhất để triển khai công tác tự đánh giá theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Năm 2016, nhà trường tiếp tục thành lập hội đồng tự đánh giá lần 2 và đăng ký kiểm định chất lượng giáo dục theo quy định.
Tháng 12/2016, đoàn đánh giá ngoài của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục (thuộc Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam) đã tiến hành khảo sát chính thức tại trường. Với 51/61 tiêu chí được công nhận (chiếm 83,6%), Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học.
Bên cạnh những điểm mạnh đã được ghi nhận, thời gian tới, Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải cũng cần triển khai các biện pháp nhằm từng bước chuẩn hóa và nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên, chất lượng các hoạt động đầu tư, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế.
Đặc biệt, nhà trường cần tập trung quy hoạch tổng thể về cơ cơ sở vật chất để đảm bảo phát triển bền vững. Đồng thời, lập kế hoạch kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo của nhà trường và phấn đấu để đạt các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng quốc tế.
Nguồn: Trung tâm Truyền thông giáo dục
(09/03/2017)
Sáng 9/3, tại tỉnh Phú Thọ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức bế mạc Cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp Quốc gia dành cho học sinh trung học năm học 2016-2017 khu vực phía Bắc.
Đây là lần thứ năm Bộ GD&ĐT tổ chức hội thi Khoa học Kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh bậc trung học. Cuộc thi năm nay có sự tham gia của 241 dự án ở 21 lĩnh vực đến từ 34 đơn vị.
Kết quả, Ban Tổ chức đã lựa chọn và trao giải lĩnh vực và giải toàn cuộc thi cho những dự án xuất sắc nhất. Trong đó, giải lĩnh vực gồm: 29 giải Nhất, 39 Giải Nhì, 56 giải Ba và 47 giải Khuyến khích. Giải toàn cuộc thi gồm: 5 giải Nhất, 10 giải Nhì và 14 giải Ba.
Năm giải Nhất toàn cuộc thuộc về học sinh của các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Quảng trị với các đề tài: “Phát hiện đột biến gen BRAF bằng công nghệ mới sử dụng mẫu ARN góp phần định hướng chiến lược điều trị ung thư”; “Thiết kế, tổng hợp và thử tác dụng kháng ung thư của một số dẫn chất Axit Hydroxamic mới mang khung 2 - OXOINDOLIN hướng ức chế Histon Deacetylase”; “MIND HAND - Giải pháp toàn diện giúp người câm điếc hòa nhập cộng đồng”; “Cánh tay robot cho người khuyết tật”; “Tổng hợp các dẫn xuất mới từ Zerumbone và đánh giá tiềm năng trong điều trị ung thư”.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
(15/02/2017)
Chiều 15/2, tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đã có buổi làm việc với GS. John Graham, Hiệu trưởng Trường Đại học Chính sách công và Môi trường (SPEA), Đại học Indiana, Hoa Kỳ và PGS. Trần Ngọc Anh, giảng viên Trường Đại học Indiana, một trong những thành viên tích cực của Nhóm Đối thoại giáo dục với nhiều sáng kiến và hoạt động nhằm phát triển giáo dục Việt Nam.
Bộ trưởng nhấn mạnh: Muốn xây dựng được Kế hoạch tổng thể phát triển giáo dục đại học Việt Nam, ngay từ bây giờ phải định dạng được những vấn đề cơ bản, trong đó nhấn mạnh tới 5 nhiệm vụ và cũng là những định hướng nội dung hợp tác giữa Nhóm Đối thoại giáo dục với các đơn vị chức năng của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong thời gian tới. Đó là: Nghiên cứu và dự báo nhu cầu nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao trong vòng 5 - 10 năm tới; nghiên cứu mô hình hoạt động của các trường đại học tiên tiến trên thế giới; nghiên cứu và xây dựng được chuẩn/quy chuẩn của các trường đại học; xác định số lượng các trường đại học Việt Nam có thể phát triển lên đẳng cấp quốc tế.
“Quy hoạch mạng lưới các trường đại học sẽ theo quy luật cạnh tranh về chất lượng giáo dục của thị trường. Không như các giai đoạn trước, nhà nước không xác định số lượng cụ thể các trường đại học tại một thời điểm mà công tác quy hoạch sẽ theo định hướng mở, tùy thuộc vào điều kiện phát triển của từng giai đoạn cụ thể. Sau khi quy hoạch mạng lưới các trường đại học được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Kế hoạch tổng thể phát triển giáo dục đại học Việt Nam là bước tiếp theo để cụ thể hóa các nội dung trong quy hoạch. Chính vì vậy, Kế hoạch tổng thể phát triển giáo dục đại học Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng”. - Bộ trưởng nhấn mạnh.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
(31/01/2017)
Chiều 31/1, Bộ GD&ĐT đã Công bố Quy chế Thi trung học phổ thông quốc gia Ban hành kèm theo Thông tư số 04/2017/TT-BGDĐT ngày 25/01/2017.
Quy chế thi THPT Quốc gia 2017 có một số quy định đáng chú ý sau:
Theo quy chế, kì thi THPT quốc gia năm 2017 có 5 bài thi, gồm 3 bài thi độc lập là: Toán, Ngữ văn, Ngoại ngữ và 2 bài thi tổ hợp là Khoa học Tự nhiên (tổ hợp các môn Vật lí, Hóa học, Sinh học; viết tắt là KHTN), Khoa học Xã hội (tổ hợp các môn Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân đối với thí sinh học chương trình Giáo dục THPT; tổ hợp các môn Lịch sử, Địa lí đối với thí sinh học chương trình GDTX cấp THPT; viết tắt là KHXH.
Về nội dung thi, theo lộ trình, Kỳ thi THPT năm 2017, nội dung thi nằm trong Chương trình lớp 12 THPT. Tới Kỳ thi THPT năm 2018, nội dung thi nằm trong Chương trình lớp 11 và lớp 12 THPT. Từ năm 2019 trở đi, nội dung thi nằm trong Chương trình cấp THPT.
Theo Quy chế thì kì thi THPT quốc gia năm 2017, mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ có một cụm thi do sở GDĐT chủ trì (không có hai loại cụm thi như năm trước). Bộ GDĐT sẽ điều động cán bộ, giảng viên của các trường ĐH, CĐ (gọi chung là trường ĐH, CĐ phối hợp) đến các cụm thi để phối hợp, hỗ trợ công tác tổ chức thi, thực hiện việc giám sát các khâu: in sao đề thi, coi thi, chấm thi và phúc khảo.
Năm nay, toàn quốc thống nhất sử dụng phần mềm quản lý thi do Bộ GDĐT cung cấp; thiết lập hệ thống trao đổi thông tin về kỳ thi chính xác, cập nhật giữa trường phổ thông với sở GDĐT, giữa sở GDĐT với Bộ GDĐT; thực hiện đúng quy trình, cấu trúc, thời hạn xử lý dữ liệu và chế độ báo cáo theo quy định trong hướng dẫn tổ chức thi THPT quốc gia hằng năm 7của Bộ GDĐT.
Quy chế cũng lưu ý các điểm thi, khi nhận đề thi: Các môn thi thành phần trong mỗi bài thi KHTN hoặc KHXH có cùng một mã đề thi, nếu không cùng mã đề thi, thí sinh phải báo cáo ngay với CBCT trong phòng thi, chậm nhất 10 phút sau khi thí sinh nhận đề thi. Phải để đề thi dưới tờ Phiếu TLTN; không được xem nội dung đề thi khi CBCT chưa cho phép.
Thông tư sẽ có hiệu lực từ ngày 10/3/2017
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
15/01/2017
Tổng số trường đã hoàn thành báo cáo tự đánh giá: 584, trong đó:
- Trường đại học, học viện : 212 (30 trường được tổ chức kiểm định chất lượng đánh giá ngoài trong đó có 12 trường được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng)
- Trường cao đẳng : 211
- Trường trung cấp chuyên nghiệp : 161
Danh sách chi tiết: Tải về
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
(25/12/2016)
Bộ GD&ĐT công bố Dự thảo Quy định về Kiểm định chất lượng cơ sở Giáo dục Đại học (GD ĐH) để lấy ý kiến rộng rãi trước khi ban hành. Theo đó, Dự thảo Quy định về Kiểm định chất lượng cơ sở GD ĐH nhằm thực hiện chủ trương đẩy mạnh công tác kiểm định chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với khu vực và quốc tế, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng nhất là từ sau khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được thành lập.
Thông tư về Quy định về Kiểm định chất lượng cơ sở GD ĐH sau khi được ban hành sẽ thay thế một số văn bản sau: Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học; Điều 1, Điều 2 của Thông tư số 37/2012/TT-BGDĐT ngày 30/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; Các quy định về quy trình, chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục đối với các đại học, học viện, trường đại học tại Thông tư số 62/2012/TT-BGDĐT ngày 28/12/2012 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Quy định về quy trình và chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục trường ĐH, CĐ và Trung cấp chuyên nghiệp (TCCN).
Dự thảo Quy định này quy định cả về bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục và quy trình, chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục, áp dụng cho việc đánh giá đối với các học viện, trường đại học, với một số điểm cần lưu ý như sau:
Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục được xây dựng dựa trên bộ tiêu chuẩn đánh giá cơ sở giáo dục do Mạng lưới các trường đại học ASEAN (AUN-QA) mới ban hành tháng 7/2016 (Guide to AUN-QA Assessment At Institutional Level (ver 2.0)).
Theo đó, bộ tiêu chuẩn này gồm có 25 tiêu chuẩn, 111 tiêu chí, đánh giá toàn bộ hoạt động của một cơ sở giáo dục đại học, được chia thành 04 nhóm: Đảm bảo chất lượng về mặt chiến lược (08 tiêu chuẩn, 37 tiêu chí; Đảm bảo chất lượng về mặt hệ thống (04 tiêu chuẩn, 19 tiêu chí); Đảm bảo chất lượng về mặt thực hiện chức năng (09 tiêu chuẩn, 39 tiêu chí); Kết quả hoạt động (04 tiêu chuẩn, 16 tiêu chí).
So với bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường đại học hiện hành (ban hành theo Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT; sửa đổi tại Điều 1, Điều 2 của Thông tư số 37/2012/TT-Bộ GDĐT ngày 30/10/2012 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT) chỉ có 10 tiêu chuẩn và 61 tiêu chí, bộ tiêu chuẩn mới có nhiều tiêu chuẩn và tiêu chí hơn. Triết lý chung cho đại đa số các tiêu chuẩn là các tiêu chí trong tiêu chuẩn sẽ được phân thành quy trình PDCA (Plan, Do, Check, Act).
Việc đánh giá và công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng có sự thay đổi cơ bản so với quy định hiện hành. Từng tiêu chí được đánh giá theo thang 7 mức để đánh giá thay vì chỉ có mức đạt và chưa đạt như hiện nay. Cơ sở giáo dục được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng khi có điểm trung bình của các tiêu chuẩn trong từng nhóm đều đạt từ mức 3,5 điểm trở lên và không có tiêu chuẩn nào có điểm trung bình dưới 2,0 điểm.
Dự thảo Quy định Kiểm định chất lượng cơ sở GD ĐH cũng quy định rõ hơn về những việc cần thực hiện trong cả chu kỳ kiểm định, nhất là sau khi cơ sở giáo dục được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng. Có các quy định về khuyến khích và chế tài đối với kết quả thực hiện công tác kiểm định chất lượng đối với các cơ sở giáo dục.
Dự thảo cũng quy định cụ thể về việc chuyển tiếp giữa quy định hiện hành và quy định mới. Theo đó, đối với những cơ sở giáo dục đang đánh giá theo bộ tiêu chuẩn hiện hành thì được thực hiện tiếp quy trình kiểm định chất lượng giáo dục theo quy định hiện hành trong giai đoạn chuyển tiếp theo các mốc thời gian quy định như sau:
+ Việc tự đánh giá và đăng ký đánh giá ngoài với tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục thực hiện cho đến hết ngày 30/6/2017.
+ Việc đánh giá ngoài đối với các cơ sở giáo dục này được thực hiện cho đến hết ngày 31/12/2017.
+ Việc thẩm định kết quả đánh giá và công nhận cơ sở giáo dục đạt tiêu chuẩn chất lượng được thực hiện cho đến hết ngày 30/6/2018.
Sau khi được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng theo quy định hiện hành và có hiệu lực trong thời gian 5 năm, các cơ sở giáo dục cũng có thể đăng ký để đánh giá thêm theo quy định mới.
Nguồn: Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục
Bài toán xác định điểm sàn như thế nào đang được trao về cho các trường ĐH. Trường càng uy tín, điểm sàn càng cao.
Theo dự thảo quy chế tuyển sinh ĐH năm 2017 công bố ngày 16-12, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) dự kiến bỏ quy định về ngưỡng bảo đảm chất lượng đầu vào (thường gọi là điểm sàn) vốn đã tồn tại nhiều năm qua. Chủ trương này đang gây ra những ý kiến trái chiều. Trong đó, nổi bật là những lo ngại về loạn chất lượng - nhất là với các trường ngoài công lập - và làm cho việc phát triển bậc học CĐ càng thêm khó khăn.
Bước tiến trong việc trao quyền tự chủ
Bỏ quy định về điểm sàn chính là một bước tiến trong việc trao quyền tự chủ tuyển sinh cho các trường. Cần lưu ý, bỏ điểm sàn chỉ có nghĩa là Bộ GD-ĐT không bắt buộc các trường phải tuyển sinh trên một ngưỡng đầu vào nhất định, chứ bộ không cấm các trường tự quy định điểm sàn cho mình.
Bài toán xác định điểm sàn như thế nào đang được trao về cho các trường. Có khả năng những trường đưa ra điểm sàn càng cao thì uy tín của họ càng lớn. Điểm sàn là một trong những dấu hiệu của “đẳng cấp”. Các trường sẽ phải tự mình giải quyết tình thế lưỡng nan giữa số lượng và chất lượng, tùy theo tầm nhìn, chiến lược và phân khúc thị trường mà họ lựa chọn.
Tuy nhiên, cũng có khả năng các trường mở rộng cửa đầu vào không giới hạn điểm sàn do họ có chiến lược riêng và tự tin vào khả năng mang lại giá trị gia tăng cho người học, đặc biệt là các trường có những bài trắc nghiệm riêng để đánh giá năng lực của người học mà không dựa vào điểm thi như yếu tố duy nhất. Bên cạnh đó, không loại trừ khả năng các trường “vơ bèo vạt tép”, miễn sao có người học để có nguồn thu và duy trì sự tồn tại của mình, bất kể năng lực và kết quả học tập của người học, biến nhà trường thành một cỗ máy bán bằng về bản chất.
Điều quan trọng là với chủ trương bỏ điểm sàn của Bộ GD-ĐT, các trường được quyền tự do lựa chọn việc định nghĩa họ là ai, tồn tại bằng cách gì và hình dung như thế nào về tương lai của mình.
Ai sẽ bảo vệ người học?
Những lo ngại về “loạn chất lượng” xuất phát từ các quan niệm truyền thống về bản chất của giáo dục ĐH và về lối tổ chức đào tạo hiện nay của Việt Nam.
Đến nay, không ít người vẫn nghĩ rằng ĐH là để đào tạo những người làm quan, làm thầy, làm chủ, vì thế là đặc quyền của một số ít trong xã hội. Kinh tế tri thức đã làm cho điều này thay đổi, ĐH trở thành nơi đào tạo lao động có kỹ năng và nâng cao phẩm chất công dân. Nó không nên là đặc quyền mà cần mở rộng cho mọi đối tượng.
Xu hướng thế giới ngày nay là ngày càng nhấn mạnh tính chất cá nhân hóa việc học. Việc đo lường khả năng tiếp thu và tiềm năng của mỗi cá nhân chỉ qua điểm thi vài môn học đang trở nên bất cập. Một học sinh kém toán không có nghĩa là kém mọi thứ và cánh cửa ĐH đóng sập lại. Cùng với việc cá nhân hóa quá trình học tập, các trường cần được tạo điều kiện để sáng tạo những thước đo riêng và lựa chọn những người học phù hợp với mục tiêu đào tạo.
Tuy nhiên, trong trường hợp xấu nhất - các trường chỉ cần có người học, bất chấp năng lực nền tảng của họ và cũng không có những hành động thích hợp để nâng cao chất lượng đào tạo - thì ai sẽ bảo vệ người học?
Cái giá phải trả của quyền tự do lựa chọn là phải chịu trách nhiệm về những hệ quả mà quyết định của mình gây ra. Thí sinh ngày nay có rất nhiều quyền lựa chọn. Bức tranh ĐH ngày nay đã đa dạng hơn rất nhiều với sự tham gia của các trường tư, trường có yếu tố nước ngoài, các chương trình liên kết. Trong từng loại công hay tư, các trường cũng có đặc điểm rất khác nhau, mức học phí khác nhau và cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, môi trường học tập, triết lý đào tạo, chương trình học cũng khác nhau.
Hơn bao giờ hết, người học phải là người tiêu dùng khôn ngoan. Họ cần ý thức rõ theo đuổi bậc ĐH là một cuộc đầu tư nghiêm túc không chỉ về tiền bạc mà còn về thời gian và cơ hội. Vì vậy, nếu họ không nỗ lực tìm hiểu và đánh giá các trường qua nhiều nguồn thông tin, nếu họ lựa chọn những trường dễ dãi chỉ vì cần có tấm bằng ĐH mà không muốn bỏ công học tập nghiêm túc thì tấm bằng chỉ là một mảnh giấy vô dụng.
Nhà nước có thể bảo vệ người học bằng cách tạo ra một môi trường minh bạch về thông tin. Các trường nên có toàn quyền giới thiệu về mình để thu hút người học nhưng nếu có chứng cứ về những quảng cáo sai sự thật thì cần xử lý thật nặng.
Tấm bằng giá trị cần chuẩn mực
Lối tổ chức đào tạo truyền thống của Việt Nam xưa nay là siết chặt đầu vào nhưng thả lỏng đầu ra. Điều này lẽ ra cần phải ngược lại. Bất cứ ai cũng nên có quyền được học nhưng giá trị của tấm bằng cần được bảo vệ bằng những chuẩn mực không khoan nhượng.
Người học cần cân nhắc việc chỉ cần trả học phí là được học và học trong trường bao nhiêu năm cũng được. Song, nếu không chứng minh được những kiến thức, kỹ năng, năng lực được quy định cụ thể trong chuẩn đầu ra của từng ngành, họ có thể sẽ không bao giờ chạm tay được vào tấm bằng ĐH.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
(15/08/2016)
Đây là nguồn số liệu được Vụ Kế hoạch Tài chính - Bộ Giáo dục và Đào tạo thống kê năm học 2015-2016.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo