ĐÌNH ĐÔNG HẠ
(Di Tích Lịch Sử Văn Hóa 400 Năm Tuổi)
(Di Tích Lịch Sử Văn Hóa 400 Năm Tuổi)
Đình làng “Đông La Thượng, Đông La Hạ” (nay là Đình làng Đông Hạ), tọa lạc tại: Thôn Đông Hạ, xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Ngôi đình cổ kính này là nơi thờ tự và là di tích lịch sử văn hóa quan trọng của địa phương.
Đình được xây dựng cách đây khoảng 400 năm.
Năm 1995: Đình được công nhận di tích lịch sử văn hóa.
Đình làng được xây dựng từ thời Lê (thế kỉ XV), ban đầu có tên là: “Đình Đông La Thượng, Đông La Hạ” (sau gọi là: Đình làng Đông Hạ).
Làng Đông La Thượng, Đông La Hạ trước đây là: “Thành hoàng làng ấp Cổ Trang (sau là trại Xa La Hạ), tổng Dạ Cát (sau là tổng Cấn Xá), huyện Tiên Phong (sau là huyện Ninh Sơn), phủ Quảng Oai (sau là Quốc Oai), đạo Sơn Tây”. Nay là hai thôn: “Thôn Đông Thượng và thôn Đông Hạ, xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội”.
Thời Lê (thế kỷ XV): Đông La Thượng, Đông La Hạ có tên là: Xa La Thượng, Xa La Hạ, thuộc tổng Dạ Cát, huyện Ninh Sơn, phủ Quốc Oai.
Thời Nguyễn: Thuộc tổng Cấn Xá.
Ngày nay: Đông La Thượng, Đông La Hạ (nay gọi là: Đông Thượng, Đông Hạ) cùng Việt Yên, Yên Thái thuộc xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, Hà Nội.
II. Nhân vật được thờ:
Vị thần chính: Thành Hoàng làng Đặng Long Uyên (鄧龍淵), một vị tướng thời Hùng Vương thứ 18 (XVIII), Qua đời ngày 7 tháng Giêng tại Đông La Thượng, Đông La Hạ.
Các vị thần khác: Nữ tướng bà Mai Trang, Tam Thánh Mẫu, ông Trần Đức Tuấn, các anh hùng liệt sĩ, các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
*Theo các tư liệu cổ ghi chép về Tiểu sử và công trạng của Thành Hoàng làng như sau:
Xuất thân: Ông Đặng Long Uyên là người có thiên tư khác lạ, học lực thông minh, tài năng xuất chúng, thuộc lòng binh pháp và có sở trường về võ nghệ.
Phụng sự đất nước:
Năm 24 tuổi: Cha mất, ông chọn nơi đất cát địa (đất có thế phong thủy) mai táng và hương khói thờ phụng cha 3 năm.
Vừa xong 3 năm tang cha, Vua Hùng Duệ Vương ban chiếu cầu hiền. Ông về kinh ứng thí, được vua khen ngợi, ban chức chỉ huy sứ tướng quân.
Thục Phán xâm lược: Lúc này cơ đồ nhà Hùng mạt vận, Thục Phán đem binh xâm lấn bờ cõi của các Vua Hùng. Nghe theo lời bàn của Tản Viên Sơn Nguyễn Tùng, Vua phong ông làm Tiền đạo dương lộ Thượng tướng quân, cùng Tản Viên Sơn Nguyễn Tùng dẹp giặc.
Dừng chân tại trại Xa La: Một hôm, ông hành quân đến trại Xa La, thấy ở đây phong cảnh hữu tình. Suối chảy quanh co, đồi núi không cao mà cát mịn. Ông liền hạ trại. Hỏi ra mới biết, hồi xưa cha mẹ ông đã ở đây làm nghề đánh cá. Vì thế tình cảm của ông với dân làng càng thêm gắn bó. Ông chọn 20 trai làng vào cánh quân của ông. Hôm sau, ông nhận lệnh triều đình mang quân về núi Sóc Sơn chặn giặc.
Chiến đấu tại núi Sóc Sơn: Ông được lệnh mang quân về núi Sóc Sơn chặn giặc, Không ngờ, ông bị bao vây. Quân tướng bị vây hãm 15 ngày. Thiếu cơm ăn, thiếu cả nước uống. May thay có đám mây kéo đến, làm ra một trận mưa. Quân sĩ được giải khát. Ông cho là lòng trời đã giúp, ông ra lệnh tiến đánh. Trận này đại thắng.
Công đức với dân làng: Sau khi dẹp giặc, ông được ban thực ấp ở huyện Ninh Sơn. Ông về thăm trại Xa La và cấp cho dân 50 hốt vàng dùng để mua ruộng đất, phục vụ việc cúng tế sau này.
Ông đổi tên trại Xa La thành: Khu Đông La Thượng, khu Đông La Hạ (nay là 2 thôn “Đông Thượng và Đông Hạ”).
Qua đời: Ông mất ngày 7 tháng Giêng, tại Đông La Thượng, Đông La Hạ. Sau khi ông mất, Triều đình và nhân dân Đông La Thượng, Đông La Hạ đều thương tiếc. Ông được triều đình sắc phong làm Thành Hoàng làng (Bản cảnh thành hoàng). Chuẩn cho dân 2 khu rước mĩ tự, lập miếu thờ cúng.
Thời gian: Hiện nay, thôn Đông Hạ quy định 5 năm một lần, tổ chức lễ lớn vào ngày 10 tháng 8.
Nội dung: Tế lễ, rước bài vị xung quanh làng.
Thành phần tham gia gồm các đội: Cờ, trống, bát bửu, đội tế nam, đội dâng hương nữ và toàn dân.
Lễ vật: Mâm xôi, thủ lợn, hoa quả, đèn, hương đăng.
Ban tổ chức: Do Ban văn hóa chủ trì, phần nghi lễ do Ban khánh tiết của làng phụ trách.
V. Kiến trúc của Đình:
Phong cách: Mang phong cách thời Nguyễn. Đình còn một số di vật thuộc thời Lê.
Kết cấu và tòa đại bái: Đình làm theo lối chữ Đinh (丁), gồm một tòa đại bái và hậu cung. Cách đây vài chục năm, địa phương tôn tạo một tòa đại bái nữa. Trước cửa Đình là cây đa cổ thụ, đường làng rồi đến ao đình xa xa là những quả đồi thấp nhỏ. Tòa đại bái mới tôn tạo xây dựng cách đây vài chục năm, có chiều dài 12,4 mét, rộng 7,6 mét, được phân làm 3 gian 2.
Tòa đại bái nối hậu cung, cũng kết cấu 4 hàng chân gỗ.
Hậu cung xây bệ thờ, trên đặt long ngai, bài vị cùng các di vật quí.
Hướng: Đình Đông La Hạ nhìn về hướng Nam.
Đồ giấy (tài liệu): Còn lưu giữ cuốn Thần phả chữ Hán Nôm (phiên âm Thần phả), các bài văn tế ghi chép nhân vật được thờ (chép chữ Hán Nôm, ghi phiên âm).
Đồ gỗ: 2 cỗ kiệu, long ngai, bài vị, 4 cây đèn, 3 bộ tam sự, 3 mâm đồng, 2 đôi câu đối, 16 gươm trường, bát bửu.
Đồ sứ: 8 bát hương thời Nguyễn, 1 lọ hoa.
Đồ đồng: 6 cây đèn đồng, 2 chuông đồng.
Đồ đá: 2 cột, 2 bồn hoa, 2 con sấu (thời Lê), 1 con rùa.