MỤC TIÊU
- Giúp học viên nhận thức cách đối đãi với con người để có thể bảo hộ cho mình và bảo hộ cho người.
- Thấu hiểu tầm quan trọng của tâm thái này để biết cách khởi tạo nguồn năng lượng bên trong mình, dịch chuyển tâm thái phù hợp trên nền tảng của trí tuệ, kích hoạt được nguồn năng lượng của trí tuệ giúp chọn lựa được những tổng nghiệp tốt.
TRỌNG ĐIỂM
Làm rõ các khái niệm: Người làm chủ tâm thái, Người giàu Tâm thái, tâm thái An vui.
Thấu suốt khái niệm nội tâm
Nêu được định nghĩa người đạt tâm thái An vui và cách thức tách tâm cảnh để đạt được trạng thái an vui nội tâm.
KHÁI NIỆM – ĐỊNH NGHĨA
Tâm thái: được hiểu là một trạng thái cảm xúc nội tâm.
Người làm chủ tâm thái: là người chủ động chọn lựa và chịu trách nhiệm với những chọn lựa bên trong nội tâm để làm chủ hoàn cảnh bên ngoài.
Người giàu tâm thái: là người luôn giữ được xuyên suốt trạng thái trân trọng biết ơn ở tình, bao dung ở tánh, an vui ở tâm.
Tam giác hiện thực của Tâm Thái
TT: Trạng thái cảm xúc của nội tâm
NL: Mức độ chủ động đối với sự vận hành của tham và tưởng
VC: Trạng thái rung động điện từ nội tâm (hoặc âm, hoặc dương, hoặc cân bằng) → Tần số rung động năng lượng.
TÂM THÁI
Một người mà luôn giữ được xuyên suốt 3 cái trạng thái này luân phiên nhau, linh hoạt sử dụng phù hợp với từng bối cảnh thì được gọi là người Giàu Tâm Thái.
Trân trọng Biết ơn và Bao dung dựa trên nền tảng của An vui thì đó được gọi là người Giàu Tâm Thái.
Tức là lấy cái Tình để đối đãi, hay lấy cái Tánh để phân tích, hân biệt, hay lấy cái Tâm để đón nhận (chỉ biết, chỉ nghe, chỉ thấy, chỉ nói vậy thôi).
Khi đối diện với một thông điệp, người đó chọn Tình để đối đãi, hay dùng Tánh để phân tích phân biệt, hay là dùng Tâm để đón nhận sẽ quyết định mức độ làm chủ nội tâm người người đó.
“Trân trọng biết ơn ở tình, bao dung ở tánh, an vui ở tâm tôi bảo hộ mình và thân hữu xung quanh”
Một người mà luôn giữ được xuyên suốt 3 cái trạng thái này luân phiên nhau, linh hoạt sử dụng phù hợp với từng bối cảnh thì được gọi là người Giàu Tâm Thái.
Trân trọng Biết ơn và Bao dung dựa trên nền tảng của An vui thì đó được gọi là người Giàu Tâm Thái.
Tức là lấy cái Tình để đối đãi, hay lấy cái Tánh để phân tích, hân biệt, hay lấy cái Tâm để đón nhận (chỉ biết, chỉ nghe, chỉ thấy, chỉ nói vậy thôi).
Khi đối diện với một thông điệp, người đó chọn Tình để đối đãi, hay dùng Tánh để phân tích phân biệt, hay là dùng Tâm để đón nhận sẽ quyết định mức độ làm chủ nội tâm người người đó.
AN VUI
1. Vui vẻ:
Vui vẻ của một con người có thể đến từ Khoái lạc và đến từ An vui. Chúng ta cần phân biệt rõ cái trạng thái Vui vẻ của con người là do Khoái lạc mang lại hay do An vui mang lại.
- Khoái lạc: là trạng thái cảm xúc nội tâm khi thỏa mãn nhất thời tham và tưởng về tài, sắc, danh, thực, thùy.
VD: mua chiếc xe hơi, căn nhà thì vui vẻ trong bao lâu?...
Quan sát con người hiện tại theo đuổi sự vui vẻ từ khoái lạc: nổ lực có 1 công việc tốt, sau đó có lương cao, có nhà, có xe…chúng ta đi tìm vui vẻ từ khoái lạc suốt nhiều năm tháng, từ trẻ tới già, từ người giàu đến người nghèo.
TAM GIÁC HIỆN THỰC CỦA AN VUI
TTH: trạng thái nhận thức nội tâm xuất phát từ sự chân thật nơi chính mình. (Nghe, Thấy, Nói, Biết không dính mắc vào lớp tánh và lớp tình của nội tâm)
NLH: Tánh không của nội tâm Tham và tưởng về tài, sắc, danh, thực, thuỳ được buông dừng thôi dứt
VCH: Biết mình đang nghe, biết mình đang thấy, biết mình đang nói, biết mình đang biết
- An vui:
+ Là trạng thái nhận thức nội tâm mà khi đó tham và tưởng về tài, sắc, danh, thực, thùy được buông, được dừng, được thôi, được dứt.
+ Là trạng thái nhận thức nội tâm xuất phát từ sự chân thật nơi chính mình. Xuất phát từ nghe, thấy, nói, biết mà không dính mắc vào lớp tánh và lớp tình của con người.
+ Là trạng thái nhận thức nội tâm biết mình đang nghe, biết mình đang thấy, biết mình đang nói, biết mình đang biết.
- Người đạt tâm thái an vui:
+ Là người mà việc sở hữu đầy đủ hay không đầy đủ vật chất thỏa mãn Tham và Tưởng cũng không còn là yếu tố quyết định sự vui vẻ.
+ Là người khi nghe và thấy vấn nạn của đối phương là chỉ biết mình đang nghe và chỉ biết mình đang thấy (nghe, thấy trong an vui thanh tịnh)
Hiện thực Nội tâm cân bằng:
🡺 3 Thuật ngữ An vui – Chân Thật – Tánh không là biểu hiện của Thông tin – Năng lượng – Vật chất khác nhau. 3 thuật ngữ này cần phải nắm bắt trong phần đời còn lại mới có thể làm chủ nội tâm, làm giàu tâm thái.
* Khi con người đón nhận thông điệp bằng sự Chân thật nơi chính mình thì khi đó khởi tạo nguồn năng lượng của Tánh Không và biểu hiện ra bên ngoài là sự An vui thanh tịnh.
- An vui vừa là dạng năng lượng (cảm xúc) vừa là dạng vật chất
- Chúng ta đang xem An vui là Vật chất bởi vì chúng ta đang đi Vật chất hóa An vui, còn bản chất nó là một cái trạng thái năng lượng, nó là Tâm thái mà.
Vật chất hóa để chúng ta mới sở hữu nó được. Mình đang Vật chất hóa tất cả những gì Phi Vật chất.
🡺 Một người nhận được sự Chân thật nơi chính mình và đón nhận thông điệp bằng sự Chân thật mặc định là có được sự An vui.
Một người An vui thì có thể không biết mình đã nhận được sự Chân thật nơi chính mình. Nhưng Thông tin chắc rồi thì từ đó sẽ biểu hiện Vật chất ra bên ngoài, do người đó chưa rõ thông tin về sự chân thật nên chưa gọi tên được.
Sự Chân thật: là những gì không thay đổi qua không gian và thời gian.
🡺 Chúng ta cung cấp thông tin về sự chân thật, còn nhận được hay không nhận được còn tùy thuộc công đức của người nghe.
Sự Chân thật không do suy nghĩ mà ra nên càng mong muốn tìm về sự Chân thật thì càng xa rời nó.
* TÁNH KHÔNG thuộc trí tuệ - AN VUI thuộc tâm thái – CHÂN THẬT thuộc nhân cách
- Khi nhận được tánh không (sự chân thật nơi chính mình) thì mình đạt được tâm thái an vui và nhân cách chân thật.
- Một người nâng nhận thức lên tầng bậc đó thì mới đạt được trí tuệ đó, đạt được tâm thái đó và đạt được nhân cách đó.
Người đạt tâm thái AN VUI là người khi nghe và thấy vấn nạn của đối phương là chỉ biết mình đang NGHE và chỉ biết mình đang THẤY (có thể được gọi là nghe, thấy trong an vui thanh tịnh).
Biết mà không dính mắc chớ không phải vô tri.
Chấp có cũng không được, chấp không cũng không nên.
Một người vô tri vô giác, 1 người khùng, 1 người an vui về hình tướng như nhau nhưng nội hàm khác nhau.
Bên nhà Thiền, người ta có dùng câu: Tánh Nghe, Tánh Thấy là bè, Đưa người thanh tịnh về miền quê xưa, để giúp chúng ta nhận lại an vui chân thật nơi nội tâm mình, tức là mượn cái Tánh Nghe, Tánh Thấy để tách cảnh ra, gọi là Tâm cảnh không dính nhau. Khi nghe và thấy chân thật dần dần sẽ nói được lời chân thật.
Khi dính mắc vào mọi việc mà còn không an vui được, thì hãy dùng “Nhất Tự Thiền” là BUÔNG, DỪNG, THÔI, DỨT vấn đề ngay tại đó để trở về trạng thái an vui nội tâm.
Khi chưa nhận thấy sự chân thật nơi chính mình đồng nghĩa với việc mình còn thiếu công đức.
+ Tam giác Hiện thực NỘI TÂM CÂN BẰNG:
o Thông tin là: Sự Chân thật nơi chính mình
o Năng lượng là: Tánh Không Nội tâm
o Vật chất là: An vui
● Ứng dụng 1: Khi cảm thấy bị dính mắc với SV SV con người hoàn cảnh →Tách tâm cảnh
● Ứng dụng thứ hai: Cân bằng điện từ cho bản thân để bảo hộ thân hữu xung quanh
● Ứng dụng thứ ba: Khi tham tưởng khởi lên gây đau khổ →-Dụng " Nhất tự thiền" để buông
● Ứng dụng 4: Đưa về trạng thái tánh không của nội tâm để Thụ đắc, nhận hiện thực
● Ứng dụng 5: Nâng trí tuệ lên tầng bậc 3, bậc 4 để đứng trên vấn nạn phát sinh