Lạy bàn thờ gia tiên vào 3 ngày Tết là một nghi lễ không thể thiếu của con cháu đối với những người đã khuất. Thế nhưng, khi bị vị hôn thê trách cứ, người con trai đã khéo biện bạch cho sự vắng mặt của mình bằng một lễ nghi có vẻ còn quan trọng hơn: lo việc họ, việc làng.
Hôm Ba mươi anh mắc lo việc họ
Sáng mồng Một anh bận việc làng,
Ông bà bên anh cũng bỏ huống chi bên nàng, nàng ơi!
Đến ngày Tết, con cháu dù làm ăn ở đâu cũng cố tìm cách về nhà để ăn Tết, mừng tuổi ông bà cha mẹ. Con cái dù đã lập gia đình ra ở riêng cũng đem con cái về thăm và chúc Tết cha mẹ mình:
Mồng một thì Tết mẹ cha
Mồng hai tết chú, mồng ba Tết thầy.
Hay:
Mồng một thì ở nhà cha,
Mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy.
Lệ tết thầy của ta ngày xưa thật đẹp. Đó là tinh thần “tôn sự trọng đạo”, là tinh thần “tiên học lễ, hậu học văn”. Học trò học nghề hay học chữ, ở với người dạy cho mình đều có nghĩa thầy trò. Học trò phải kính trọng thầy, quý mến thầy mà nhất là thầy dạy học chữ lại phải kính trọng hơn nữa.
“Lúc học, gặp khi mồng Năm ngày Tết như: Tết Nguyên đán, Thanh minh, Đoan ngọ, Trung thu,... mùa nào thức nấy, hoặc cặp gà thúng gạo, đường mứt bánh trái hoặc năm ba quan tiền, tùy tình đa thiểu mà đem đến lễ thầy”.
Trong các tục lệ về ngày Tết, ta có tục xông đất hay xông nhà đầu năm. Theo tục lệ nầy, có nhiều người tin rằng, có người vía xấu đến xông đất nhà nào (tức là người đến chúc Tết đầu tiên) nhà đó sẽ gặp điều xui xẻo quanh năm. Vì thế, “nếu không có người nhà dễ vía để xông nhà lấy, người ta phải nhờ một người khác trong thân bằng cố hữu tốt vía để sớm ngày mồng Một Tết đến xông nhà, trước khi có khách đến chúc Tết, để người này đem sự dễ dãi may mắn lại”.
Do tục lệ này, vào sáng Mồng một Tết ít người dám ra khỏi nhà để đi thăm bà con láng giềng, sợ mình sẽ đem điều xui xẻo đến cho người khác. Cũng do tục lệ nầy, người ta rất sợ những kẻ “mang tiếng không tốt” đến xông nhà mình. Ở đất Hà thành vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 có hai nhân vật trào phúng nổi tiếng, một cặp bài trùng mà những tay có máu mặt thời bầy giờ đều ngán, đó là Ba Giai và Tú Xuất. Hai nhân vật này mang tiếng là hay chòng ghẹo và phá phách thiên hạ. Vì thế người ta đã hù dọa nhau:
Hễ ai mà nói dối ai
Thì mồng một Tết Ba Giai đến nhà.
Đa số dân ta sống bằng nghề nông. Hàng năm, nhiều nhà dâng lễ cúng đất, còn gọi là lễ “tạ thổ kỳ yên” vào những ngày đầu năm. Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, lệ cúng đất được thực hiện vào ngày ngày 10 tháng Giêng:
Mồng chín vía Trời
Mồng mười vía Đất
Ngày vía đất có lệ cúng đất. “Ở nhà quê miền Nam, đến ngày 10 tháng Giêng người nhà nông làm lễ cúng đất. Nghi lễ rất giản dị. Nhà khá giả thì dọn mâm cơm có gà vịt đem ra ruộng cúng rồi cùng nhau ăn uống tại chỗ. Ở nhà thì dọn lễ vật ra cúng tại bàn thờ Thổ Địa đặt trong nhà. Lễ vật cũng đơn giản: con gà, miếng thịt hoặc rút gọn chỉ còn bộ tam sên với đĩa gạo, muối”.
Trong 3 ngày Tết ta có lệ chúc Tết. Con cháu chúc Tết ông bà cha mẹ, ông bà cha mẹ chúc Tết lại con cháu; bà con quên đi mọi ghen ghét, giận hờn; hễ gặp nhau là gửi lời cầu chúc tốt đẹp cho nhau:
Nay mừng tứ hải đồng xuân
Tam dương khai thái, muôn dân hòa bình.
Sĩ thời chăm việc học hành,
Một mai khoa bảng để dành công danh.
Công thì phượng các long đình
Đủ nghề sư khoáng, rứt nghề công thâu.
Nông thời cuốc bẫm cày sâu,
Thu hòa hạ mạch, phong thâu có ngày.
Thương thời buôn bán liền tay
Rứt tài Tử Cống ai tày cho đang!
Ở miền Bắc có tục hát “xúc xắc xúc xẻ” để mừng Tết ngay vào đêm giao thừa. Một đoàn trẻ con gồm chừng 10, 15 em tay cầm ống bương đựng đồng tiền kẽm. Ngay từ lúc chạng vạng, bọn trẻ lũ lượt kéo đến từng nhà để mừng gia chủ sang năm mới gặp nhiều điều may mắn với lời hát mừng đầy ắp những điều tốt đẹp:
Xúc xắc xúc xẻ
Nhà nào còn đèn còn lửa
Mở cửa cho chúng tôi vào
Bước lên giường cao: Có đôi rồng ấp
Bước xuống giường thấp: Có đôi rồng chầu
Bước ra đằng sau: Có nhà ngói lợp
Ngựa ông còn buộc
Voi ông còn cầm
Ông sống một trăm linh năm tuổi lẻ
Vợ ông sinh đẻ
Những con tốt lành
Những con như tranh
Những con như đối...
Ở một số địa phương lại có tục “hát sắc bùa” vào ngày Tết. Thông thường hát sắc bùa do phường sắc bùa hát theo điệu dân ca sắc bùa của từng địa phương. Có một số địa phương lại kết hợp múa sắc bùa với hát sắc bùa thành một vũ điệu dân gian đầy quyến-rũ như ở một số xã miền biển quận Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Phường sắc bùa còn có những bài hát riêng cho từng nghề nghiệp: buôn bán, nông tang, canh cửi...:
Thánh chúa vạn niên.
Thánh chúa vạn niên!
Chúng tôi nay dâng cách đội đèn
Thái hòa gặp tiết xuân thiên
Gió đưa chồi ngọc, hoa chen cành vàng
Trong nhà ta đèn thắp sáng trưng
Song le còn muốn chơi trăng ngoài thềm
Để cho ấm ngoài êm...
Vào sáng Mồng một Tết, một số chức sắc trong làng từ Tiên chỉ, Thứ chỉ, Lý trưởng, Trương tuần cùng các bô lão đều tề tựu về đình làng để tế cáo thần linh bản thổ và thần Thành hoàng. Trong ngày gặp mặt đầu năm ở nơi linh-thiêng này, quý chức sắc của làng đều dâng lời cầu nguyện xin Thành hoàng và thần-linh bản-thổ phù trợ cho dân làng sang năm mới được vạn sự như ý:
Chúc mừng thượng đẳng tối linh
Phù trì dân xã hiền-vinh sang giàu
Trước đình lại có rồng chầu
Có đôi qui phụng tựa màu non tiên
Giữa đình có đấng bát tiên...
Trong những hội Xuân đầu năm, làng thường tổ chức các hội hát nam nữ như: hát đúm, hát dặm, hát trống quân, hát quan họ... Thường vào cuộc hát, người khởi xướng thường hát những lời chúc tụng tốt đẹp:
Tới đây viếng cảnh, thăm hoa
Trước mừng các cố, sau là mừng dân.
Sau nữa tôi mừng cả làng tuần
Mừng cho nam nữ chơi Xuân hội nầy
Một mai đàn có bén dây
Ơn dân vạn bội biết ngày nào quên!
Vào 3 ngày Tết, các làng thường tổ chức các trò chơi tại sân đình, sân chùa hay một khoảng đất trống nào đó để dân làng tụ tập vui Xuân. Các trò chơi thông thường gồm có: cờ người, tổ tôm điếm, đánh đu, ném cầu, chọi gà, đô vật,... Ngoài dịp Tết Nguyên đán, các làng còn tổ chức hội Xuân vào các ngày Thần kỵ tức ngày húy kỵ của vị Thành hoàng của làng. Các lễ hội này thường được tổ chức vào mùa Xuân hay mùa Thu vời nhiều trò chơi đặc biệt hơn.