Văn Miếu - Quốc Tử Giám

Hoài Hương tổng hợp

Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070 (tức năm Thần Vũ thứ hai đời Vua Lý Thánh Tông) để thờ các bậc Tiên thánh, Tiên sư của đạo Nho, đồng thời mang chức năng của một trường học Hoàng gia mà học trò đầu tiên là Thái tử Lý Càn Đức, con trai Vua Lý Thánh Tông.

Năm 1076, Vua Lý Nhân Tông cho lập Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu với vai trò là trường học dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý trong triều đình. Năm 1253, Vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc học viện, mở rộng và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có học lực xuất sắc.

Đến đời Vua Trần Minh Tông (1314 – 1329), nhà giáo Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử Giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp cho các hoàng tử. Năm 1370, sau khi ông mất, Vua Trần Nghệ Tông đã cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.

Năm 1785, Vua Lê Hiển Tông đổi Quốc Tử Giám thành nhà Thái học. Đến đầu thời Nguyễn, Quốc Tử Giám được lập tại Huế, nhà Thái học đổi thành nhà Khải Thánh.

Phía trước Văn Miếu, ở bên kia đường Quốc Tử Giám, có một hồ nước khá rộng, gọi là Hồ Văn. Trước đây, giữa hồ có gò Kim Châu, trên dựng một phương đình - “Phán Thuỷ đình”, là nơi diễn ra các buổi bình thơ của Nho sĩ. Nay phương đình đã mất, trên gò vẫn còn tấm bia dựng năm Tự Đức 18 (1865) ghi lại việc tu sửa Văn Miếu.

Tọa lạc trong một khuôn viên rộng 54331 m2, được bao quanh 4 phía bởi một khung tường xây bằng những viên gạch vồ cỡ lớn – loại vật liệu kiến trúc phổ biến thời Hậu Lê, toàn bộ khu nội tự của Văn Miếu – Quốc Tử Giám được chia làm 5 khu vực, ngăn cách bởi những bức tường ngang xây gạch vồ cổ kính.

Khu vực thứ nhất :

Nghi Môn ngoại ngày nay

Trước khi vào được Văn Miếu môn, phải đi qua Nghi Môn ngoại gồm 4 cột lớn (tứ trụ) được xây bằng gạch, trong đó hai trụ giữa xây cao hơn, đỉnh trụ đặt hai tượng nghê chầu; hai trụ ngoài thấp hơn, đỉnh trụ đắp hình chim phượng, đuôi chụm vào nhau, 4 đầu quay về 4 hướng. Thân trụ đắp nổi các đôi câu đối chữ Hán. Hai bên Nghi Môn có 2 bia “Hạ mã” (xuống ngựa).

Nghi Môn ngoại ngàyxưa

Qua Nghi Môn ngoại, sẽ đi thẳng đến Văn Miếu Môn (nghi môn nội).Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa và gồm 3 cửa cuốn vòm, trong đó cửa chính giữa xây 2 tầng. Tầng dưới được thiết kế to, rộng, có cầu thang lên tầng trên. Phía bên ngoài tầng dưới chỉ mở một cửa cuốn, 2 cánh bằng gỗ, mi cửa hình bán nguyệt chạm nổi đôi rồng chầu mặt nguyệt. Tầng trên thu nhỏ hơn, được thiết kế như một nghi môn 2 tầng 8 mái gồm 4 mái hiên và 4 mái nóc. Tầng này mở 3 cửa cuốn, cửa giữa có treo chuông khánh, xung quanh có hành lang rộng, 4 mặt có lan can.

Văn Miếu Môn (nghi môn nội)

Từ Văn Miếu Môn, vào khu Nhập đạo theo con đường lát gạch thẳng tắp, sẽ tới cổng thứ hai là Đại Trung Môn gồm 3 gian dựng trên nền gạch cao, mái lợp ngói, kết cấu ba hàng chân cột, hai bên có 2 cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đại Tài Môn. Gian giữa cổng treo một tấm biển nhỏ đề 3 chữ sơn then Đại Trung môn.

Đại Trung môn

Khu vực thứ hai :

Đường Thần Đạo

Con đường thẳng từ Văn Miếu môn tới Đại Trung môn lại nối tiếp thẳng tới Khuê Văn Các. Từ hai cửa Đạt Tài và Thành Đức ở hai bên cửa Đại Trung, hai con đường nhỏ hơn song song chạy thẳng với con đường trục giữa, chia khu vực thứ hai này thành 4 dải. Hai hồ nước được đào ở vị trí tương tự như hai hồ nước ở khu vực thứ nhất.

Khuê Văn Các

Được dựng năm 1805, Khuê Văn Các (gác Sao Khuê) là một lầu vuông gồm 2 tầng, 8 mái bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước . Gác dựng trên một nền vuông cao cân xứng. Có ba bậc thang đá bước lên nền vuông này để qua cửa Khuê Văn các . Tầng dưới là 4 trụ gạch vuông, mỗi cạnh của trụ có chiều dài một mét và trên các mặt trụ sơn trắng đều có chạm trổ các hoa văn, 4 phía để trống. Tầng trên làm bằng gỗ sơn màu đỏ có chút thếp vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái, Trong Khuê Văn các là sàn gỗ có chừa 2 khoảng trống để bắc thang lên gác. Bốn cạnh sàn có diềm gỗ chạm trổ tinh vi. Bốn góc sàn làm lan can con tiện cũng bằng gỗ. Bốn mặt tường bịt ván gỗ, mỗi mặt đều làm một cửa tròn có những thanh gỗ chống tỏa ra bốn phía. Cửa và những thanh gỗ chống tượng trưng cho sao Khuê và những tia sáng của sao Khuê đang tỏa sáng trên bầu trời .. Mé trên sát mái phía cửa ngoài vào treo một biển sơn son thiếp vàng 3 chữ Khuê văn các. Mỗi mặt tường gỗ đều chạm một đôi câu đối chữ Hán thiếp vàng.. Gác Khuê Văn vốn là nơi xưa kia dùng để họp bình những bài văn hay của các sĩ tử đã thi trúng khoa thi hội.

Hai bên Khuê Văn Các là hai cửa Bí văn và Súc văn, những tên gọi có ý nghĩa ca ngợi vẻ đẹp và giá trị của văn chương, hai cửa Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sĩ

Khuê Văn Các được xem là công trình kiến trúc độc đáo, biểu tượng của văn hóa và văn học Việt Nam.

Khuê Văn Các ngày xưa

Khu vực thứ ba :

Bước qua Khuê Văn Các nghĩa là "gác vẻ đẹp của sao Khuê”, sẽ đến khu vực thứ ba đó là giếng Thiên Quang(giếng soi ánh mặt trời) và hai khu nhà bia Tiến sĩ

Giếng Thiên Quang

Giếng Thiên Quang (Thiên Quang tỉnh) còn được gọi là Văn Trì (Ao Văn) có hình vuông, quanh năm đầy nước. Mặt nước phẳng lặng trở thành tấm gương soi bóng gác Khuê Văn và những cây cổ thụ, tạo nên cảnh sắc lung linh, huyền ảo. Người xưa quan niệm, giếng hình vuông tượng trưng cho đất, cửa tròn gác Khuê Văn tượng trưng cho trời. Tinh hoa của cả trời đất đều được tập trung ở trung tâm văn hóa giáo dục uy nghiêm giữa chốn đô thành này. có ý tưởng đề cao trung tâm giáo dục văn hoá Nho học Việt Nam.

Giếng Thiên Quang ngày xưa

Con đường lát gạch bao quanh giếng Thiên Quang tức "giếng soi ánh sáng bầu trời" sẽ dẫn du khách tới nhà bia Tiến sĩ được dựng ở 2 bên tả, hữu của giếng. Đây được xem là di tích có giá trị quan trọng trong quần thể di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, gồm 82 tấm bia đá khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ của các khoa thi Đình thời nhà Hậu Lê và nhà Mạc (1442-1779). Tất cả các tấm bia đều được chế tác theo cùng một phong cách, đó là bia dẹt, trán cong, hình vòm. Các tấm bia được đặt trên lưng rùa để biểu thị sự trường tồn của tinh hoa dân tộc, phản ánh được giá trị văn hóa, lịch sử của đất nước trong suốt hơn 300 năm.

Nhà bia Tiến sĩ

Bia đá

Cả hai bên, giữa mỗi vườn bia xây một tòa đình vuông, 4 mặt bỏ trống, nền cao, giữa nền có bệ, cửa đều trông thẳng xuống giếng. Đây là hai tòa đình thờ bia. Xưa kia hàng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật cúng bái các vị tiên nho của nước ta mà danh tính còn khắc trên bia đá

Khu vực thứ tư :

Qua cửa Đại Thành là vào khu vực chính của di tích Quốc Tử Giám - Văn Miếu. Cũng như cửa Đại Trung, cửa Đại Thành là một kiến trúc 3 gian. Chính giữa, trên giáp nóc có treo một bức hoành khắc 3 chữ Đại Thành Môn . Bên phải hai hàng chữ nhỏ khắc Lý Thánh Tông, Thần Vũ nhị niên, Canh Tuất thu, bát nguyệt phụng kiến có nghĩa là: "Tháng 8 mùa thu năm Canh Tuất, niên hiệu Thần Vũ năm thứ 2 đời Lý Thánh Tông vâng sắc xây dựng". Cửa Đại Thành, mở đầu cho khu vực của những kiến trúc thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ Phối, Thất thập nhị hiền v.v... và cũng là nơi giảng dạy của trường giám thời xưa.

Đại Thành Môn

Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng mênh mang lát gạch Bát tràng. Hai bên phải trái của sân là 2 dãy Hữu Vu và Tả Vu. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn trải suốt chiều rộng của sân nối giáp với đầu hồi của Tả Vu, Hữu Vu 2 bên, tạo thành cụm kiến trúc hình chữ U

Sân Đại bái

Đại bái Đường là nơi xưa kia xuân, thu nhị kỳ, vua cùng hoàng thân và các quan lại đến tế Khổng Tử. Tòa Đại bái gồm 9 gian với 6 hàng chân cột, xây trên nền cao hơn mặt sân 30cm, xung quanh nền bó vỉa gạch, mái lợp ngói mũi hài. Các bộ vì kết cấu kiểu “chồng rường, cốn kẻ chồng, bẩy hiên”, giữa bờ nóc đắp nổi hình lưỡng long chầu nguyệt, trên các bẩy hiên trang trí hình hoa lá cách điệu. Hiện chỉ có gian giữa của tòa Đại bái có hương án thờ, các gian còn lại đều để trống. Xung quanh gian thờ treo nhiều bức hoành phi, câu đối ca ngợi Nho học và các vị hiền triết.

Tòa Đại Bái

Song song với tòa Đại bái ở phía sau là Thượng Điện gồm 9 gian, tường xây 3 phía, phía trước có cửa bức bàn đóng kín 5 gian giữa, 4 gian đầu hồi có cửa chấn song cố định. Gian chính giữa có cái khám và ngai lớn để trên một bệ xây, trong có bài vị Chí thánh tiên sư Khổng Tử. Cách 2 gian 2 bên tới những gian khác cũng có bệ xây và cũng có khám, trong khám có ngai và bài vị. Bên trái có 2 ngai thờ Tăng tử và Mạnh tử; bên phải có 2 ngai thờ Nhan tử và Tử tư, Chu công không còn đuợc thờ nữa. Bốn vị được thờ trên đây tức là Tứ phối được quy định thờ từ ngày mới xây dựng Văn Miếu. Ngoài bài vị ra cả 4 vị đều có tượng gỗ sơn thiếp.

Đền thờ Khổng Tử

Khu vực thứ năm :

Khu vực thứ năm trong là nhà Thái học, xưa là Quốc Tử Giám, nơi đào tạo nhân tài cho các triều đại. Thời Nguyễn trường Quốc Tử Giám ở Hà Nội bị bãi bỏ, nhà Thái học bị đổi làm nhà Khải thánh, thờ thân phụ, thân mẫu của Khổng Tử.

Đền Khải Thánh

Khu Khải Thánh là khu sau cùng của di tích. Từ Văn Miếu sang đến Khải Thánh người ta có thể đi theo 2 con đường lát gạch phía sau Tả Vu và Hữu Vu, hoặc cũng có thể từ sau lưng Thượng Điện qua cửa tam quan. Cửa này là cửa chính cũng xây 3 gian, có mái lợp và cánh cửa đóng mở. Từ bên ngoài vào đền Khải Thánh cũng có thể qua một cổng nhỏ có cánh mở ở góc Đông Nam nơi tiếp giáp với bức tường ngăn 2 khu Văn Miếu và Khải Thánh.

Kiến trúc đền Khải Thánh sơ sài hơn song cũng có Tả Vu, Hữu Vu 2 bên và đền thờ ở giữa. Đền Khải Thánh xưa vốn là Quốc Tử Giám, nơi rèn đúc nhân tài cho nhiều triều đại. Năm 1946 quân Pháp đã bắn đại bác phá hủy cả. Kiến trúc ngày nay là hoàn toàn mới. Nền sân đều được lát gạch bát tràng.

Nhà Tiền đường và Hậu đường

Phần sau cùng là khu Tiền đường và Hậu đường: đây là công trình hoàn toàn mới do thành phố Hà Nội xây dựng lại vào năm 1999.

Nhà Tiền đường 9 gian với 40 cột gỗ lim chống mái, đầu hồi xây tường bằng gạch, mặt ngoài để trần không trát. Gian đầu hồi và gian thứ ba mặt trước, mặt sau đều có cửa bức bàn chấn song con tiện dẫn sang nhà Hậu đường.

Danh sư Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An

Hậu đường là kiến trúc gỗ hai tầng. Tầng 1 gồm 9 gian, 2 chái. Tầng một là nơi tôn vinh Danh sư Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An và là nơi trưng bày về Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long và nền giáo dục Nho học Việt Nam giới thiệu khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Văn Miếu - Quốc Tử Giám cùng giá trị của truyền thống tôn sư trọng đạo, hiếu học, đề cao nhân tài, thừa kế và phát huy di sản văn hoá dân tộc. Tầng 2 có 5 gian.Tầng 2 là nơi tôn thờ các danh nhân đã có công xây dựng Văn Miếu - Quốc Tử Giám và đóng góp vào sự nghiệp giáo dục Nho học Việt Nam. Đó là vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông.

Đền thờ 3 vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông



Trở lại Trang Chính