Đền Ngọc Sơn

Hoài Hương sưu tầm

Đền Ngọc Sơn nằm trên đảo Ngọc Sơn thuộc hồ Hoàn Kiếm, kiến trúc đền là một dãy nhà hình chữ Tam. Các nhân vật được thờ trong đền ngoài Trần Hưng Đạo, Văn Xướng Đế Quân, Lã Động Tân, Quan Vân Trường, còn thờ đức Phật Adiđà. Điều này thể hiện quan niệm Tam giáo đồng nguyên của người Việt.

Phía Nam đền Ngọc Sơn là trấn Ba Đình, xét ngụ ý sâu xa, tên gọi ấy mang nghĩa chắn những làn sóng văn hóa độc hại xâm nhập vào nước Nam thời đó

Sau này, bên đền Ngọc Sơn, nhà nho lỗi lạc Nguyễn Văn Siêu cho xây tháp Bút, đỉnh tháp hình ngọn bút lông, có khắc ba chữ Tả Thanh Thiên có nghĩa là viết lên trời xanh. Đây là nơi linh thiêng, khi xưa các sĩ tử Bắc Hà đến cầu xin việc học hành. Và sẽ là thiếu sót nếu không nhắc tới cầu Thê Húc - chiếc cầu màu son như dải lụa đào thắt qua làn nước xanh.

Cửa đền Ngọc Sơn

Cùng với hồ Hoàn Kiếm, quần thể di tích đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc được xem là một điển hình về không gian kiến trúc của Hà Nội.

Ngàn năm đã trôi qua, Hà Nội nay đã có nhiều thay đổi nhưng quần thể di tích đặc biệt giữa lòng Thủ đô vẫn mãi là niềm tự hào của người Hà Nội.

Lịch sử và Quá trình xây dựng

Cửa trong

Đền hiện nay được xây dựng từ thế kỷ 19. Lúc đầu được gọi là chùa Ngọc Sơn (chữ Nho: 玉山), sau đổi gọi là đền Ngọc Sơn vì trong đền chỉ thờ thần Văn Xương Đế Quân là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng Đạo, vị anh hùng có công phá quân Nguyên thế kỷ 13.

Khởi nguyên, khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên ngôi đền đã có tại đây là Ngọc Tượng, đến đời nhà Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Thời Trần, ngôi đền để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống Nguyên-Mông. Về sau lâu ngày đền ấy sụp đổ.

Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Thụy Khánh và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía Đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời nhà Lê, cung Thụy Khánh bị Lê Chiêu Thống phá hủy. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai, nhân nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn. Bài ký "Đền Ngọc Sơn đế quân" được soạn năm 1843 vào lúc nhân dịp sửa đền Quan đế thành chùa Ngọc Sơn có viết: "...Hồ Tả Vọng tên cũ gọi hồ Hoàn Kiếm là một danh thắng đất Kinh kỳ xưa. Phía bắc mặt hồ, một gò đất nổi lên rộng khoảng ba bốn sào, tương truyền là chỗ đài câu cá thời cuối Lê. Trước đây, ông Tín Trai làng Nhị Khê nhân có đền Quan Đế tại đấy bèn mở rộng sửa sang thêm gọi là chùa Ngọc Sơn...".

Ít năm sau chùa lại nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam Thánh. Hội này đã bỏ gác chuông, xây lại các gian điện chính, các dãy phòng hai bên, đặt tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi tên là đền Ngọc Sơn. Theo bài ký "Sửa lại miếu Văn Xương", thì "...Hiện nay đền thờ mới đã hoàn thành, phía trước kề bờ nước, làm đình Trấn Ba, ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng văn hóa. Bên tả, phía đông cầu Thê Húc, dựng Đài Nghiên. Lại về phía đông trên núi Độc Tôn, xây Tháp Bút, tượng trưng cho nền văn vật..."

Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc.

Công trình - Kiến trúc xung quanh Đền Ngọc Sơn

Tháp Bút ở đầu cầu Thê Húc phía ngoài

Trên núi Ngọc Bội (núi Độc Tôn cũ), nhà nho Nguyễn Văn Siêu cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông dựng ngược, thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút.

Đài Nghiên

Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là Đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Trên nghiên có khắc một bài minh nói về công dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. Người đời sau ca ngợi là: "Nhất đài Phương Đình bút". Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành. Hai bên có hai câu đối:

Bát đảo, mặc ngân hồ thủy mãn

Kình thiên, bút thế thạch phong cao.

Nghĩa là:

Tràn quanh đảo ngấn mực đầy hồ

Chạm bầu trời, thế bút ngất núi

Cầu Thê Húc

Tên cầu Thê Húc nghĩa là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời. Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn.

Đắc Nguyệt Lâu

Cổng đền có tên là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng). Cổng nằm chếch dưới bóng cây đa cổ thụ, ở giữa một vùng cây cối um tùm, trông như từ dưới nước nhô lên.

Đền thờ

Tượng thờ trong đền Ngọc Sơn

Đền chính gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất về phía Bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Tượng đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1 m, hai bên có hai cầu thang bằng đá. Tượng Văn Xương đứng, tay cầm bút.

Trấn Ba Đình

Phía Nam có đình Trấn Ba (đình chắn sóng - ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng không lành mạnh trong nền văn hoá đương thời). Đình hình vuông có tám mái, mái hai tầng có 8 cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ. Cột trong đình có đôi câu đối:

Kiếm hữu dư linh quang nhược thủy

Văn tòng đại khối thọ như sơn

Chữ Hán:

劍 有 餘 靈 光 若 水

文 從 大 塊 壽 如 山

Nghĩa là:

Kiếm sót khí thiêng ngời tựa nước

Văn cùng trời đất thọ như non.

Các nhân vật được thờ trong đền ngoài Văn Xương Đế Quân, Lã Động Tân, Quan Vân Trường, Trần Hưng Đạo, còn thờ cả Phật A-di-đà. Điều này thể hiện quan niệm Tam giáo đồng nguyên của người Việt.

Tuy là một ngôi đền kiến trúc mới, song đền Ngọc Sơn là một điển hình về không gian và tạo tác kiến trúc. Sự kết hợp giữa đền và hồ đã tạo thành một tổng thể kiến trúc Thiên - Nhân hợp nhất, tạo vẻ đẹp cổ kính, hài hoà, đăng đối cho đền và hồ, gợi nên những cảm giác chan hoà giữa con người và thiên nhiên.

Linh uy tiếng nổi thật là đây:

Nước chắn, hoa rào, một khoá mây.

Xanh biếc nước soi, hồ lộn bóng,

Tím bầm rêu mọc, đá tròn xoay.

Canh tàn lúc đánh chuông ầm tiếng,

Khách vắng khi đưa xạ ngát bay.

Thành thị tiếng vang đồn cảnh thắng,

Rành rành nọ bút với nghiên này.

Bài thơ này viết theo lối thuận nghịch độc, có hai cách đọc xuôi và ngược. Đọc ngược:

Này nghiên với bút nọ rành rành:

Thắng cảnh đồn vang tiếng thị thành.

Bay ngát xạ đưa khi vắng khách;

Tiếng ầm chuông đánh lúc tàn canh.

Xoay tròn đá mọc rêu bầm tím;

Bóng lộn hồ soi nước biếc xanh.

Mây khoá một rào hoa chắn nước,

Đây là thật nổi tiếng uy linh.

Nguồn: Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Sài Gòn, 1941

Sự kiện: Lịch sử - Văn hoá

(Dân Việt) Với thế hệ trẻ ngày nay, ít ai biết rằng, đền Ngọc Sơn từng trải qua bao thăng trầm, biến thiên, để rồi đứng vững vàng, lộng lẫy giữa lòng Hà Nội như ngày nay.

Nổi bật giữa Hồ Gươm trong xanh, đền Ngọc Sơn được xây dựng trên một đảo nhỏ nằm về phía Bắc của hồ mang vẻ đẹp cổ kính và sang trọng hiếm có. Với thế hệ trẻ ngày nay, ít ai biết rằng, nơi đây từng trải qua bao thăng trầm, biến thiên, để rồi đứng vững vàng, lộng lẫy giữa lòng Hà Nội như ngày nay.

Sách cổ còn ghi, khởi nguyên, khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đã đặt tên ngôi đền là Ngọc Tượng, đến đời nhà Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Thời Trần, ngôi đền để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hi sinh trong kháng chiến chống Nguyên Mông. Về sau lâu ngày đền ấy sụp đổ.

Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735-1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Thụy Khánh và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía Đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời nhà Lê, cung Thụy Khánh bị Lê Chiêu Thống phá huỷ. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai, nhân nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn.

Bài kí trên văn bia chữ Hán Ngọc Sơn Đế Quân từ ký, do Tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn năm1843còn ghi được sự kiện này như sau: "...Hồ Tả Vọng tên cũ gọi hồ Hoàn Kiếm là một danh thắng đất Kinh kỳ xưa. Phía Bắc mặt hồ, một gò đất nổi lên rộng khoảng ba bốn sào, tương truyền là chỗ đài câu cá thời cuối Lê. Trước đây, ông Tín Trai làng Nhị Khê nhân có đền Quan Đế tại đấy bèn mở rộng sửa sang thêm gọi là chùa Ngọc Sơn...".

Vậy thì trong lịch sử, trong khu vực đền Ngọc Sơn ngày nay vốn có ngôi chùa tên là chùa Ngọc Sơn. Chùa quay mặt hướng Nam, phía trước dựng gác chuông, phong cảnh nhờ thế càng thêm khởi sắc. Tuy nhiên, trải tháng năm lâu ngày, ngôi chùa bị đổ nát, tưởng chừng chùa cũng muốn đi theo người.

Ít năm sau chùa lại nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam Thánh. Hội gồm những người xuất thân khoa mục tham gia. Khi mới thành lập, mục đích của hội chủ yếu là khuyến khích làm việc thiện. Hội thờ Văn Xương Đế Quân nhưng chưa có đền thờ. Những người con của ông Tín Trai có quan hệ mật thiết với hội nên đã tình nguyện nhượng lại chùa này cho hội. Toàn hội đến làm lễ trước ngài Văn Xương Đế Quân, xin được quẻ bói viết rằng:

Bảo kiếm tân ma bách hiện quang,

Tứ phương chiếu diện nhậm hành tàng.

Tòng tiền tự hữu căn cơ tại

Nhuận sắc tăng huy thanh bá dương.

Nghĩa là:

Gươm báu mới mài ánh sáng choang,

Bốn phương chiếu rọi mặc hành tàng.

Từ xưa nền tảng còn nguyên đó

Nhuận sắc khang trang nức tiếng vang.

Theo đó, hội tiến hành tu bổ đền thờ, dỡ bỏ gác chuông chùa, cải tạo chùa thành đền thờ Văn Xương Đế Quân. Đền được khởi công từ mùa Đông năm Tân Sửu (1841) đến mùa Thu năm Nhâm Dần (1842) thì hoàn thành.

Năm Tự Đứcthứ 18 (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêuđứng ra tu sửa lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Trong văn bia Trùng tu Văn Xương miếu bi ký, do Án sát sứ tỉnh Hà Nội là Đặng Lương Hiên soạn vào khoảng thời gian sau khi tu sửa lại đền, ghi lại rằng: "...Hiện nay đền thờ mới đã hoàn thành, phía trước kề bờ nước, làm đình Trấn Ba, ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng văn hóa. Bên tả, phía Đông cầu Thê Húc, dựng Đài Nghiên. Lại về phía Đông trên núi Độc Tôn, xây Tháp Bút, tượng trưng cho nền văn vật. Qua ba bốn năm, dựa vào tiền quyên góp mới làm xong...".

Với các văn nhân ở Hà Nội lúc bấy giờ, việc hướng thiện và chấn hưng giáo dục rất được đề cao. Khi dựng lại đền Ngọc Sơn, ngụ ý của các nhà trí thức là muốn nêu cao nền giáo hóa mang ý nghĩa nhân văn cao cả. Vì thế trong bài ký, Án sát sứ Đặng Lương Hiên nhấn mạnh rằng: "Miếu thờ Văn Xương ở khắp thiên hạ, để dạy mọi người làm điều thiện mà thôi. Nhưng người ta làm điều thiện không gì quan trọng bằng ngăn lòng dục của người mà bảo tồn lẽ phải của trời, chẳng cầu phúc mà tự nhiên được phúc".

Thành Thăng Long xưa là một nơi lễ giáo, trải qua bao phen biến đổi, danh thắng hoang tàn. Cảm nhớ dấu xưa mà các trí thức văn nhân đã sửa sang phục hồi, đủ khiến non sông thêm vẻ đẹp. Về sau, đền thờ thêm Lã Tổ (thần coi về thuốc chữa bệnh) và thờ Trần Hưng Đạo, vị anh hùng đời Trần, tương truyền đã cho tập trận thủy quân tại hồ này (vì thế Hồ Gươm trước đó có tên là hồ Thủy Quân).

Trải qua nhiều sự thay đổi, như một nhân duyên định mệnh, đền Ngọc Sơn vốn là ngôi đền, rồi xây chùa, rồi dỡ chùa dựng lại đền và đền trở thành đền Ngọc Sơn tồn tại cho đến ngày nay và mãi về sau.

Một không gian đẹp nên thơ giữa Hồ Gươm trong xanh, nổi bật trên nền trời là ngọn tháp bút vòi vọi tạo nên không khí thanh bình yên ả, mà lại đầy hào khí văn chương chữ nghĩa của Hà Nội dấu yêu.

Tiêu bản rùa Hồ Gươm tại đền Ngọc Sơn

Cũng vì nơi đây là nơi văn nhân Hà Nội và bạn bè tứ phương thường hay tới, nên mỗi dấu ấn ở đây đều mang ý nghĩa văn chương tao nhã mà sâu sắc. Chẳng hạn ngay cổng ngoài đã có những dòng chữ Hán mang ý nghĩa triết tự rất ý nghĩa như: Ngọc ư tư (nghĩa là: Ngọc ở đây); Sơn ngưỡng chỉ (nghĩa là: Ngửa trông núi).

Quả đúng như lời ứng nghiệm của quẻ bói năm nào, đền Ngọc Sơn trở thành một nơi nhuận sắc khang trang nức tiếng vang. Bạn bè thế giới và nhân dân khắp đất nước, mỗi khi tới Hà Nội đều đến thăm đền Ngọc Sơn xinh đẹp.

Ngày nay, sĩ tử trước ngày đi thi thường dập dìu ghé qua đền Ngọc Sơn thành tâm cầu khấn, mong muốn được ngôi sao văn chương phù hộ cho đỗ đạt khoa trường. Đúng như lời Tiến sĩ Vũ Tông Phan viết trong văn bia Ngọc Sơn Đế Quân từ kí: "Kể từ nay việc thờ thần có nơi có chốn, các bậc sĩ phu cùng nhau hẹn ước đi về. Người mến cảnh càng thêm yêu cả cái danh. Trong hội, ai ẩn dật tu hành, ai muốn du ngoạn, nghỉ ngơi đều đã có nơi có chốn. Hứng vui ngắm trăng dưới nước, hứng vui hóng gió trên non, có thể giúp nhiều cho điều thiện, đâu chỉ riêng mình được hưởng".

Theo Đài PT&THHN


Trở lại Trang Chính