Chiếc khăn rằn Nam Bộ

Hoài Hương tổng hợp

Nếu như những cô gái xứ Huế thướt tha trong tà áo dài tím mộng mơ, thì những cô thôn nữ Nam bộ lại dịu dàng, mộc mạc trong chiếc áo bà ba cùng chiếc khăn rằn quàng trên cổ.

Khăn rằn là hình ảnh quen thuộc của người đồng bằng sông Cửu Long và bộ phận người Khmer. Không rõ nó ra đời từ bao giờ, nhưng nó đã đồng hành cùng những con người thời khai hoang mở cõi phía Nam của Việt Nam. Chiếc khăn rằn cùng chiếc áo bà ba đã trở thành hình ảnh gần gũi với mọi người, như là một biểu tượng cho người phụ nữ đồng bằng sông Cửu Long cần cù, đáng yêu.

Ai đó, một lần đến vùng đất Cửu Long Giang chắc đã nghe câu hò ngọt lịm:

"Hò … ơ … Trai nào bãnh bằng trai trai Nhơn Ái

Đầu thì hớt chảy tóc tém bảy ba.

Mặc áo bà ba khăn rằn choàng cổ

Thấy cô em gái Ba Xuyên ngồ ngộ.

Nên muốn cùng ai thố lộ đôi lời

Cấy cày cực lắm em ơi.

Theo anh về vườn ăn trái

Hò … ơ … theo anh về vườn ăn trái một đời ấm no".

Khăn rằn có từ bao giờ, điều này chưa có nhà nghiên cứu nào khẳng định chính xác. Nhưng theo lời của những bậc cao niên thì chiếc khăn rằn Nam bộ có gốc tích từ người Khmer.

Khi chúa Nguyễn Hoàng vào phía nam dãy Hoành Sơn, người ta đã thấy người Khmer đội những chiếc khăn quấn thành vòng trên đầu. Sau này khi đã sống hòa nhập cùng các dân tộc khác, chiếc khăn của người Khmer dần trở nên phổ biến và được sử dụng rộng rãi. Về với Việt Nam, chiếc khăn qua sự giao thoa ngôn ngữ giữa người Việt và Khmer tên gọi và chiếc khăn rằn Nam Bộ ra đời.

Người Việt học theo người Khmer làm khăn, ngâm sợi vải trong bột hồ 3 ngày 3 đêm sau đó mang đi dệt. Sợi vải ngâm trong bột hồ lúc đầu cứng, nhưng càng dùng khăn càng mềm, đó là một trong những đặc điểm vô cùng độc đáo của những chiếc khăn rằn này.

Ngày nay chiếc khăn rằn đã trở thành một nét đẹp đặc trưng trong văn hóa trang phục của người dân Nam bộ. Chiếc khăn rằn cùng chiếc áo bà ba đã trở thành hình ảnh gần gũi với mọi người, như là một biểu tượng cho người phụ nữ đồng bằng sông Cửu Long cần cù, đáng yêu

Chiếc khăn rằn thường có hai màu đen và trắng hoặc nâu và trắng, đỏ và trắng. Hai màu này đan chéo nhau, tạo thành ô vuông nhỏ, trải dài khắp mặt khăn . Chiếc khăn rằn có chiều dài khoảng hơn thước tây, chiều ngang chừng năm sau tấc, không cầu kỳ, sặc sỡ mà bình dị, đơn giản.

Chiếc khăn rằn đã trở nên gần gũi với người dân lao động khi nó ngày càng được sử dụng phổ biến trong lao động, sản xuất.

Đối với người Việt ở vùng Nam bộ, mỗi khi ra đồng, chiếc khăn rằn được quấn ngang eo ếch (ngang thắt lưng) hoặc vấn trên trán hất ngược lên để khi cày cấy hay gặt hái, mồ hôi đổ tuôn không rơi xuống mắt. Các mẹ, các chị không vấn mà quàng khăn vào cổ, hai tà để phía trước ngực áo dùng để lau mồ hôi. Khi tắm, khăn giúp người ta lau khô, khăn lại giúp che chắn phần cơ thể khi cần thiết.

Đôi khi hai đầu khăn được buông xuôi xuống phía trước, đi với bộ quần áo bà ba làm nên nét đặc trưng rất duyên của dân Nam Bộ. Vì vậy, khăn rằn đã trở thành một vật dụng tiện lợi và thân thiết cho mọi người, mọi giới trong lao độngvà sinh hoạt, để che cơn nắng, thấm dòng mồ hôi, chắn ngọn gió lốc, cả để lau khô dòng nước mắt hay giấu đi một nụ cười.

Sau buổi nhổ mạ, phát cỏ ngoài đồng, những tốp nam nữ ngồi nghỉ ngơi dưới gốc bần, gốc mù u, trâm bầu, lấy chiếc khăn rằn ra lau mồ hôi, gió thổi mát ru những điệu hò ngân nga trải dài và lan tỏa trong không gian mênh mông của đồng nội:

"Cây bần gie, cây bần liệt, diệc đậu cây chanh

Ai đi thấp thoáng giống dạng người nghĩa mình

Khăn rằn, nón lá, quay mặt lại em nhìn

Phải duyên em kết, phải tình em theo".

Hay qua m ột chuyến đò ngang, cô lái đò duyên dáng trong chiếc áo bà ba cùng chiếc khăn rằn quàng trên cổ cất giọng hò ngọt ngào :

“Hò ơ... anh Hai à! Anh Hai có đi đò em thì ra ngồi trước mũi. Chứ ngồi sau lái... Hò ơ... chứ ngồi sau lái... mái chèo rủi quơ ngang. Hò ơ... Lọt xuống sông! Không biết lội. Đấy la làng. Anh mà muốn vớt. Hò ơ... Anh mà muốn vớt... phải chịu nghĩa đá vàng em kéo lên...”.

Ngày nay, khi kinh tế thị trường đã phát triển manh mẽ, nhiều nét văn hóa xưa, trong đó có quan niệm về trang phục cũng đã đổi thay ít nhiều. Chiếc khăn rằn cũng đang dần vắng bóng. Hình bóng duyên dáng của nó cùng với áo bà ba đã gần như làm xong vai trò của một thời.

Song, đối với nhiều người thì chiếc khăn rằn Nam bộ trước sau vẫn mãi là một hình ảnh đẹp, một biểu trưng cho sự duyên dáng của những cô gái cũng như những tấm lòng chân tình, nồng hậu của con người đất phương Nam.

"Bước lên xe đầu đội khăn rằn

Nói năng đúng điệu, tảo tần bán buôn"

Ca dao.

Chiếc khăn rằn là nét đặc trưng riêng cho bản sắc văn hóa của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Trở lại Trang Chính