Cây "Cầu khỉ"

Hoài Hương tổng hợp

Vùng đất miền Tây Nam bộ với sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, vùng đất trù phú đã hình thành nên một nền văn hóa miệt vườn sông nước với những chiếc “cầu khỉ” .

Để thuận lợi cho việc di chuyển ở miền kênh rạch chằng chịt, những chỗ không tiện sử dụng xuồng ba lá, người miền Tây thường bắc những chiếc “cầu khỉ” qua kênh rạch để cho người qua lại.

Cầu khỉ là một loại cầu được làm rất đơn sơ bằng đủ loại chất liệu, thân cầu thường làm bằng cây tre hay cây gỗ nằm trên những thanh tre bắt chéo, phía trên những cây cầu này có hoặc không có tay vịn, rất khó đi và nguy hiểm đối với những người không quen sử dụng. Những người quen dùng thì có thể gánh/khoác/đội một khối lượng cỡ 20–50 kg để đi qua cầu (tất nhiên phải tự ước lượng sức chịu tải của cầu kẻo gãy cầu).

Tại sao lại gọi là “cầu khỉ”

Người ta hình dung chỉ có những con khỉ hay leo trèo mới có thể đi được, nên đặt tên là cầu khỉ. Một ý kiến khác cho rằng chính dáng người đi lom khom như con khỉ của khách bộ hành đã khiến chiếc cầu mang cái tên này . Ngoài ra, nó còn được gọi là cầu dừa (nếu được làm bằng cây dừa) hay cầu tre (nếu được làm bằng tre).

Cầu dừa

Phân bố

Loại cầu này hiện còn rất phổ biến ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vì ở đây có hệ thống kênh rạch chằng chịt.

Cầu khỉ ở ấp Phú Thạnh, xã Phú Hữu, An Phú.

Trước năm 1960, cầu khỉ cũng rất phổ biến ở miền bắc. Nó xuất hiện tự nhiên theo những con đường của giao thông đi bộ, khi gặp kênh rạch thì bắc cầu để khỏi phải lội nước.

Tại vùng ven biển Đồng bằng sông Hồng, như các huyện Giao Thủy, Hải Hậu,... (tỉnh Nam Định) hay Tiền Hải (tỉnh Thái Bình) hiện cũng có, chủ yếu phục vụ người qua lại khi chăm sóc lúa trên đồng.

Cầu thô sơ không có tay vịn, ở xã ven biển huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.

Tại các vùng núi cầu khỉ vẫn đang hiện diện trên các đường mòn xuyên rừng lên nương rẫy. Khi gặp suối người ta hạ một vài cây gỗ có thể dài đến 25 m, đặt lên để đi qua tránh ướt và qua được suối khi có nước lũ.

Xây dựng và sử dụng cầu khỉ

Vị trí bắc được cầu khỉ là nơi nước nông và nước không chảy mạnh. Mức độ chắc chắn của cầu thường ứng với độ sâu nước và nhu cầu qua lại: Nếu nhiều người đi thì phải chắc chắn hơn; đặc biệt nếu có trẻ em đi học thì cần có thanh tay vịn thấp. Vật liệu thường dùng là tre, luồng, lồ ô, cau, dừa, phi lao,... đã qua ngâm bùn thối để chậm bị hủy/ải.

Cầu tre

Tại nơi nước cạn dưới 1,5 m do thủy triều rút, mùa khô,... thì lội xuống và đóng các cọc chân cầu, buộc níu hoặc đục lỗ và lắp chốt tre, rồi đặt thanh cầu. Sau đó đặt các thanh tay vịn.

Tại nơi nước sâu hơn nhưng không quá 2,5 m, thì dùng thuyền đóng cọc. Cầu này cần vật liệu tốt hơn, như cây dừa, phi lao, thanh gỗ lim,... Mặt khác, thanh cây ở giữa cầu không buộc chặt, được gọi là cây "quá giang", để ghe thuyền qua lại thì nhấc lên mà đi. Nếu nhiều ghe xuồng qua lại, thì đoạn quá giang có thể làm cao vượt lên để phần nhiều ghe thuyền chui được qua cầu.

Cây cầu khỉ luôn có những nhịp lẻ vì người đời muốn dành nhịp giữa ngay giữa dòng nước sâu cho ghe xuồng chở nặng tiện đường qua lại, nên cầu khỉ chia dòng sông làm hai phần đều nhau.

Tại nơi nước sâu quá 2,5 m, hoặc nơi có nhu cầu qua lại nhiều, thì thường không làm cầu khỉ thật sự, mà làm cầu tre hoặc gỗ rộng cỡ 1 m, không có lan can tay vịn, bắc cao 3 m so với mực nước thường có, để ghe thuyền qua lại bên dưới. Nếu bề mặt cầu lát bằng thanh tre gỗ đặt ngang và phủ một ít đất cho phẳng, thì những người đủ can đảm và khéo léo có thể đi xe đạp, xe máy qua cầu. Nếu nhu cầu qua lại không lớn, làm cầu tốn kém thì để ghe đò chở.

Không có hướng dẫn nào để chỉ cách qua cầu khỉ, người phải tự tìm cách mà làm quen. Trẻ em bắt đầu làm quen bằng cách tụ tập lên cầu rồi nhảy xuống kênh mà bơi nếu không đứng vững được trên cầu, và là trò vui khá hấp dẫn của tuổi thơ. Người lớn thì gồng gánh, vác đồ, vác hoặc đi xe đạp,... qua cầu, tìm cách tránh ngã để chứng tỏ là dân miệt vườn thứ thiệt.

Cầu khỉ và Văn, Thơ, Nhạc

Cây cầu khỉ miệt vườn sông nước vẫn mãi in sâu trong ký ức người dân miền Tây Nam bộ là nét đẹp hết sức độc đáo về cảnh quan và sinh hoạt của người dân đồng bằng sông Cửu Long. Ngày ấy, vùng quê này còn nghèo, cây cầu khỉ đã chung tình với mảnh đất quê hương, quen thuộc với người dân nông thôn, khi chân bước lên cầu khỉ mọi người dường như đã quen với “nhịp lắc” và cái gập ghềnh ấy đã đi vào thơ ca qua tiếng hát êm đềm của mẹ ru con:

“Ví dầu cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi

Khó đi mẹ dắt con đi

Con đi trường học, mẹ đi trường đời”.

Hay trong câu ca :

Đã lâu lắm rồi em về thăm lại chốn xưa

Đã lâu lắm rồi em về đi qua cầu dừa.

Cầu dừa trơn trợt lắm em ơi,

Ai mà không khéo té như chơi,

Môi son má hồng chân guốc cao gót,

Làm sao qua cầu dừa......

(trích lời nhạc "Cây cầu dừa" của nhạc sĩ Hàn Châu)

Cầu khỉ đã được tạp chí Travel & Leisure xếp vào danh sách các cây cầu nguy hiểm nhất thế giới

Các em nhỏ có thể dễ dàng đi qua cầu khỉ.

Cầu khỉ là nét văn hóa đặc trưng không thể lẫn vào đâu của miền đất đồng bằng sông Cửu Long. Cây cầu lắt lẻo đã tô thêm nét đẹp cho làng quê khi những con đường bị dòng sông, kênh rạch ngăn đôi. Dòng nước cạn, con rạch nhỏ, thân cầu khỉ gọn gàng nối bên này bên kia bằng vài ngọn tre, năm ba cây gáo, cây bần, cây cau, cây dừa, thêm một mớ dây mây rừng, dây choại là cây cầu khỉ đã có mặt bên dòng đời nơi thôn dã miền sông nước. Không cầu kỳ, cũng chẳng cao sang, cây cầu khỉ đã “hòa mình” vào cuộc sống ở kinh rạch, nối liền hai bờ cho mọi người qua lại giao hòa cùng nhau, mỗi ngày như mọi ngày mang đến niềm vui hạnh ngộ đôi bờ cho con rạch làng quê.

Cầu khỉ trong đời sống của sông nước miền Tây

Ngày nay, cuộc sống hiện đại, cầu khỉ ở miền Tây Nam bộ dần được thay đổi và “biến hóa” thành những cây cầu bằng ván, xi măng chắc chắn và rộng hơn. Tuy nhiên, ở những làng quê, các cù lao, miệt vườn miền Tây thì cây cầu khỉ vẫn còn tồn tại. Giờ đây, không còn dễ dàng để có thể bắt gặp hình ảnh đứa trẻ bắt đầu tự đi qua cầu bằng cách ngồi lên cầu và nhích từng chút một trước khi có thể bước đi thành thạo trên cây cầu khỉ quê hương. Nhớ quá những cây cầu khỉ gập ghềnh ngày nào qua câu ca dao mộc mạc, quê mùa như khúc hát ân tình, nhớ đêm trăng sáng vằng vặc nơi miền quê, những thanh niên nông thôn ngồi vắt vẻo trên cầu đong đưa thả chân xuống nước, đá những trảng lục bình hờ hững trôi ngang, gió hiu hiu thổi thấy quê hương yên bình quá đỗi.

Tài liệu trích dẫn : Wikipedia


Trở lại Trang Chính