Nhớ tàu điện Hà Nội

Ngô Văn Phú

Hoài Hương sưu tầm

Có một thời, ai qua Hà Nội thường gặp những chuyến tàu điện chạy theo dọc những tuyến đường quen thuộc.

Tàu thường mắc hai toa hoặc ba toa. Toa đầu có lắp máy… Người Whatman (lái tàu điện) đứng ngay ở đầu toa. Máy đặt trong một khung sắt kín trên mặt là tay lái, có thể tháo rời ra, sau khi rút khỏi cái hộp số tốc độ.

Tay cầm lái, mắt ông ta nhìn thẳng về phía trước xem đường chỗ nào đi thẳng, chỗ nào rẽ trái rẽ phải, chỗ nào vào đường đợi tránh tàu… Chân người Whatman, thường đặt hờ lên cái cần chuông… Mỗi khi vào ga, hoặc xuất phát, qua ngã ba, qua chỗ đông người, ông ta lại dậm mấy cái: Keng… keng… keng… keng…

Tàu điện ở quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục (khu vực nhà Cá Mập ngày nay)

Keng… keng đã là âm thanh quen thuộc của Hà Nội xưa. Đó là tiếng chuông tàu điện mà xa lâu đã trở thành nỗi nhớ.

Và người ta nhớ cả cái dáng đoàn tàu, hai hoặc ba toa, sơn màu đỏ, trên nóc có cái cần sắt vắt cong, có một ròng – rọc, ấn vào dây điện được mắc ở trên, song song với đường tàu…

Chiếc đầu tàu thường có hai máy ở hai đầu. Mỗi khi đến ga cuối, người phụ tàu (thường là người bán vé) lại xuống quay cái cần xe đúng 180 độ, từ ngược thành xuôi, hoặc xuôi thành ngược, tháo móc nối toa, quay đầu rồi lại nối lại thành cho toa sau, để đi theo chiều ngược lại…

Cũng khu vực Bờ Hồ, quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục

Tàu điện Hà Nội ngày ấy có mấy tuyến: Bạch Mai – Bưởi; Kim Liên – Yên Phụ và bờ Hồ – Hà Đông… Tuyến Kim Liên – Yên Phụ thường chỉ mắc hai toa, còn tuyến bờ Hồ – Hà Đông thường mắc ba toa.

Trong toa là hai dãy ghế dài. Những chuyến tàu đông, người lên sau thường phải đứng. Những ô cửa sổ, có cửa chớp kéo lên, kéo xuống được dọc theo toa… Hai đầu toa là lối lên xuống, mỗi lối có hai bậc, có tay vịn mạ kền bóng ngời, để mọi người dễ đi vào hoặc xuống tàu…

Người bán vé có cái cặp bằng da, trên để những xấp vé dài khoảng hai ngón tay khép lại. Khi nhận tiền xong thì xé vé, đưa cho người đi tàu và lưu cuống lại… Ông ta thường ít nói, nhìn thấy ông là lấy tiền ra rồi cầm vé. Có ai hơi mải chuyện hay lơ đãng là ông vỗ vai nhẹ một cái là khách hiểu ý ngay…

Những "kẻ" trốn vé

Tôi thường được đi tàu điện với mẹ vào những ngày chủ nhật… Hoặc bà lên chợ Bưởi, chợ Đồng Xuân, mua hoa quả, cây cảnh, chim cảnh về cho cha tôi, hoặc lên Bạch Mai, thăm nhà chị gái tôi rồi rẽ vào chợ mua đậu Mơ và xách theo con cá quả cùng những mớ rau cải làm bữa cơm chiều…

Cũng có khi tôi theo chị đi tàu lên Yên Phụ rồi ghé nhà thuyền hồ Tây, bơi pê-rít-xoa trong chiều mùa thu. Giáp Tết, tôi mặc áo lương, đội mũ cát, đem quà tết cùng cha tôi lên chúc tết thầy đốc học, nhà ở gần chợ Đồng Xuân. Sau đó, cha tôi dẫn tôi chơi chợ, ăn quà, và mua sắm mấy thứ cần thiết cho ngày Tết Nguyên đán…

Và quen lệ, không năm nào, Người không xách về một bát hoa thủy tiên bán ngay tại chợ. Và bưng lên tàu với sự ưng ý và trân trọng khác thường…

Tuyến tàu điện Bờ Hồ đông khách.

Những năm học tiểu học, thời đảo chính, Nhật hất cẳng Pháp, 9-3-1945 tôi phải chuyển trường lên tận Bạch Mai, nên hôm nào tôi cũng phải đi về bằng tàu điện…

Những chuyến tàu theo tuyến cứ cần mẫn đi qua các phố quen thuộc từ mờ sáng cho đến tận 22h đêm, đã như một người thân của những khu phố và Hà Nội xưa, không thể nào quên được. Và tiếng chuông tàu điện keng…keng quen thuộc đã trở thành một biểu trưng, bằng âm thanh của Hà Nội như những biểu trưng khác: Tháp Rùa ở hồ Gươm, Khuê Văn Các ở Văn Miếu và cột cờ ở gần thành Cửa Bắc…

Tàu điện tuyến chợ Đồng Xuân

Những năm chiến tranh, tàu điện vẫn còn. Tàu điện vẫn đi về trên các tuyến. Chỉ khi còi báo động nổi lên, thì cả người Whatman, người bán vé và hành khách đều xuống tìm nơi trú ẩn… Khi báo yên lại cùng lên tàu và tàu khởi hành.

Bây giờ thì tàu điện đã không còn thích hợp nữa khi cứ nghênh ngang chạy giữa đường như thế. Xe buýt đã được thay thế. Nhưng những người đã gắn bó với Hà Nội nhiều năm, làm sao quên nổi tiếng chuông và những chuyến tàu màu đỏ, chạy qua phố xá của Hà Nội xưa…

Bài đọc thêm

Lịch sử tầu điện Hà-Nội

Tháng 5 năm 1890, Công ty Điền địa Đông Dương xin phép chính quyền đô hộ thành lập một cơ sở khai thác giao thông bằng tàu điện gọi là “Nhà máy xe điện” thuộc vào Công ty này (tên pháp là Usine de la Société des tramways électriques de l’Indochine”). Nhà máy đó đặt ở đầu làng Thụy Khuê nên dân Hà Nội ngày ấy gọi là “Nhà máy tàu điện Thụy Khuê”.

Ngày 13 tháng 9 năm 1900 chạy thử tuyến đường đầu tiên Bờ Hồ - Thụy Khuê. Chợ Đồng Xuân đông hẳn lên và suốt ngày nhộn nhịp. “Nhà tàu” hái ra tiền, khối lợi nhuận. Do vậy sang năm 1901 có thêm đường Bờ Hồ- Thái Hà ấp, khánh thành ngày 10-11-1901, lúc đó đường tàu chạy dọc Hàng Bông sang Cửa Nam, theo đường Sinh Từ (nay là Nguyễn Khuyến) rẽ sang trước mặt Văn Miếu rồi ra đường Hàng Bột (nay là Tôn Đức Thắng).

Hai năm sau mới bỏ đoạn Cửa Nam - Sinh Từ - Văn Miếu mà cho tàu chạy theo phố Hàng Đẫy (nay là Nguyễn Thái Học) tới lưng Văn Miếu thì rẽ sang Hàng Bột.

Năm 1906 làm đường Bờ Hồ - Chợ Mơ, khánh thành ngày 18-12-1906. ít năm sau, kéo dài đường Bờ Hồ - Thụy Khuê lên tận Chợ Bưởi, rồi năm 1915 đường Bờ Hồ - Thái Hà ấp được kéo vào thị xã Hà Đông nhưng phải dừng ở bên này cầu Đơ vì cây cầu này yếu, không chịu được tải trọng của tàu. Do vậy mà năm 1929 mới có một đề xuất làm cầu Đơ mới để đưa tầu điện vào giữa thị xã (nhưng rút cục vẫn không thực hiện được). Trong năm 1929 do có thêm được tuyến Yên Phụ - Ngã tư Đồng Lầm (nay là ngã tư Đại Cồ Việt - Lê Duẩn) để rồi mãi tới tháng 5 năm 1943 mới nối xuống trước cửa nhà thương Vọng (nay là bệnh viện Bạch Mai).

Như vậy là tới năm 1929, từ ga Trung tâm Bờ Hồ (Ga tàu điện Bờ Hồ nay là ngôi nhà “Hàm cá mập”) tỏa ra 6 ngã: lên Yên Phụ, lên chợ Bưởi, sang Cầu Giấy, vào Hà Đông, xuống Chợ Mơ và Vọng, tức cũng là tỏa ra 6 cửa ô nối nông thôn với nội thành.

Thời Pháp thuộc, mỗi đoàn tàu có hai hoặc ba toa, ở toa đầu có chia ra hai hạng vé: hạng nhất, hạng hai. Hạng nhất, kỳ thực chỉ là một khoang nhỏ ở toa đầu, đằng sau chỗ đứng của người lái (mà tên gọi thời đó là Vát-man) có hai hàng ghế bọc đệm vải sơn. Khách ngồi ngang nhìn thẳng, vé đắt gấp đôi hạng hai ở phía trong toa cũng như các toa sau, vốn gồm hai hàng ghế gỗ chạy dài theo thân toa. Hàng hóa thì chất ở dưới ghế, thúng mủng quang gánh móc ở toa cuối.

Tàu điện Hà Nội tồn tại trên chín thập kỷ. Tiếng chuông leng keng của nó tạo nên một nét riêng biệt của thành phố, đi vào tâm thức nhiều người dân Hà Nội. Do vậy ai đi xa, khi nhớ về Hà Nội đều phải nhắc đến nó như một cái gì đó rất đặc trưng, không bao giờ phai nhạt trong ký ức.

Trở lại Trang Chính