Lời chào phà Thủ Thiêm

Mai Lâm

Phà Thủ Thiêm đã có mặt bao nhiêu năm giữa Sài Gòn? Câu hỏi tưởng chừng không mấy khó với một bến phà ngay giữa trung tâm thành phố, mỗi ngày đón đưa cả vạn người qua lại.

Vậy nhưng trả lời lại không dễ khi từ những người khách đi phà cao tuổi đến những người đã làm việc trên phà lâu năm nhất cũng lắc đầu.

Ông Nguyễn Công Dân - phó giám đốc phà Thủ Thiêm - cười thiệt thà: “Chịu, tụi tui chỉ biết bến phà này có rất lâu, từ thời Pháp. Còn có từ năm nào thì từ hồi về bến phà này tới giờ tui cũng không được nghe”. Bà Nguyễn Thị Thảo, một cư dân cố cựu của Thủ Thiêm, hiện ở cư xá Lữ Gia, nói một cách đầy ý nghĩa: “Có lâu à, chắc hễ có người ta thì chắc là có phà rồi” (?).

Từ đò tới phà

Đó là những ngày sau Nam bộ kháng chiến (1945), bà Thảo 12 tuổi, mỗi ngày đều qua lại trên những chuyến đò ngang từ Cây Bàng đến bến Chợ Cũ (ngay đường Hàm Nghi bây giờ ) để vào Sài Gòn học. “Đó là bến đò dưới, đi bằng đò chèo cho gần. Còn ai có chuyện đi về Bình Trưng, Nhơn Trạch thì đi phà máy ngay bến phà Thủ Thiêm bây giờ, chở được cỡ 30 người với thêm vài chiếc xe ba bánh mà chạy lâu muốn chết” - bà Thảo hồi tưởng.

Bến Đò Thủ Thiêm

Còn ký ức xưa hơn nữa bà Thảo được nghe kể chính là đám cưới của cha mẹ bà vào năm Đinh Tỵ (1917) mà mỗi lần ngang qua phà Thủ Thiêm mẹ bà vẫn hay chỉ vào bến phà khi đó là nơi đám rước dâu của nhà trai dừng lại để đợi đưa cô dâu qua sông.

“Thời đó má tui kể chỉ có đò chèo chứ chưa có đò máy. Bờ sông phía Thủ Thiêm dừa nước với ô rô mọc chằng chịt, chỉ chừa ra được mấy cái bến bằng phẳng đoạn sát xưởng Caric” (xưởng đóng tàu Caric đã được di dời cuối năm 2010 ).

Trở lại với những tài liệu từ sách Đại Nam nhất thống chí, hoàn thành vào năm 1882, trang 13 có ghi: “Ở thôn Giai Quý (Giai Quới), huyện Nghĩa An (Ngãi An - tức Thủ Đức, bao gồm Thủ Đức, quận 2, quận 9 bây giờ ) tục chợ gọi là Cựu Thiêm; trước chợ có sông Bình Giang (sông Sài Gòn), đối diện tỉnh Gia Định. Tàu biển, thuyền sông tấp nập, dân sở tại làm nghề chở đò ngang, đò dọc và theo dòng nước đem bán thực phẩm như cá, thịt, rau, quả”.

Nói về đoạn này, nhà văn Sơn Nam lúc sinh thời trong bài viết trên tờ tin quận 2 - số xuân 1999 đã khẳng định: “Đò dọc đò ngang hiểu là đò ngang qua sông Sài Gòn; dọc là lên phía Bình Quới, lên Thủ Dầu Một”.

Vậy là từ cuối thế kỷ 19 đã có những chuyến đò ngang, đò dọc ngay vị trí phà Thủ Thiêm hôm nay. Nhưng theo PGS TS Tôn Nữ Quỳnh Trân - giám đốc Trung tâm Nghiên cứu đô thị - đến tận năm 1911 bến phà Thủ Thiêm mới được “danh chính ngôn thuận” khi lần đầu tiên bến được đánh dấu trong tấm bản đồ Environs de Sài Gòn, tỉ lệ 1/50.000 do chính quyền Nam kỳ vẽ.

Câu chuyện “lòng vòng” về thời gian ra đời bến phà Thủ Thiêm được nhà nghiên cứu văn hóa Hải Đường, một người có nhiều công trình nghiên cứu về Thủ Thiêm và quận 2, lý giải: “Cái mốc năm 1911 trên tấm bản đồ Sài Gòn của thực dân Pháp có thể hiểu đó là lúc đò ngang ở Thủ Thiêm đã được đưa vào quản lý một cách quy củ. Còn thực tế bến Thủ Thiêm đã có từ trước đó rất lâu, từ khi có dân cư đông đúc lúc chợ Thủ Thiêm, rồi xưởng đóng tàu Caric xuất hiện”.

Cụ Lê Văn Đoòng, nay đã 88 tuổi, ở lô B3 chung cư Thạnh Mỹ Lợi, dù đã rời Thủ Thiêm về khu tái định cư nhưng lâu lâu vẫn nhắc nhớ con cháu về một người Thủ Thiêm xưa có tên Cả Mười, căn dặn: “Không có ông Cả thì ông cố tụi bay đâu có mảnh đất cắm dùi ở Thủ Thiêm”. Ông Đoòng vốn quê miệt Cần Giuộc (Long An), cha mẹ ông vì nghèo khó đã bỏ xứ về Thủ Thiêm tìm kế mưu sinh từ đầu thế kỷ 20. Và ông Cả Mười chính là người đã giúp gia đình ông neo lại Thủ Thiêm.

Ông Đoòng kể ông Cả Mười vốn quê ở miệt Đa Phước (Bình Chánh) theo cha mẹ đến Thủ Thiêm khai hoang. Với vốn chữ Nho sâu rộng, lại có thêm nghề bốc thuốc gia truyền, ông Cả Mười đã được bầu làm hương cả và mở lòng đón những lưu dân từ miệt Cần Giuộc, Lái Thiêu, từ kênh Xáng Xà No tận miền Hậu Giang... về định cư rồi khai lập nên vùng An Lợi Đông với một đình làng cùng tên được xây năm 1909 (đình An Lợi Đông ở gần vị trí phao số 11, thuộc phường An Lợi Đông bây giờ ).

Câu chuyện của ông Đoòng kể về ông Cả Mười nay vẫn còn được nhiều dân cố cựu ở Thủ Thiêm nhắc nhớ. Và đó chỉ là một trong rất nhiều chuyện của những cư dân tứ xứ về Thủ Thiêm khai hoang, lập ấp từ đầu thế kỷ 20, từ khi bến phà Thủ Thiêm xuất hiện.

Từ lúc có bến phà, sau thế hệ của ông Cả Mười, Thủ Thiêm còn đón những dân nghèo rải rác từ khắp miền Tiền Giang, Hậu Giang, miền Đông Nam bộ và cả những cư dân miền Bắc sau năm 1954 vào lập nghiệp. Chính vì thế từ bến phà Thủ Thiêm tỏa đi có cả đền miễu thờ Phật Quan Âm, thờ ông Địa, bà Chúa Xứ của dân miệt Nam bộ đến đền thờ Quan Bơ, Đức Thánh Trần theo tín ngưỡng của người dân phía Bắc.

Những lưu dân ấy đều có điểm chung khi nơi đầu tiên họ đặt chân lên đất Thủ Thiêm chính là bến phà, và cuộc mưu sinh của họ trên đất Thủ Thiêm cũng gắn chặt với bến phà Thủ Thiêm khi đó là cửa ngõ duy nhất để giao thương.

Phà Thủ Thiêm 1965

Chỉ vào tấm bản đồ bán đảo Thủ Thiêm, PGS TS Tôn Nữ Quỳnh Trân, người chủ biên cuốn sách Thủ Thiêm quá khứ và tương lai, bảo: “Tất cả công trình dân sinh như chợ Thủ Thiêm, xưởng Caric cho tới hàng chục đình, chùa, miếu thờ của cư dân Thủ Thiêm đều quần tụ xung quanh trục chính xuất phát đường từ bến phà”. Theo bà Trân, vùng Thủ Thiêm đã được khai khẩn từ thế kỷ 18 nhưng mãi đến đầu thế kỷ 20 khi phà Thủ Thiêm xuất hiện mới trở nên đông đúc, mà dấu tích còn lại chính là những đền thờ, miếu, chùa chiền có mốc xây dựng vào thời gian này.

“Nếu không có bến phà thì Thủ Thiêm mãi mãi vẫn là vùng đầm lầy, hoang sơ chứ không thể đông đúc nhộn nhịp và có một nền văn hóa phong phú như đã thấy” - bà Trân khẳng định.

Bạc lẻ đi phà

Bốn giờ sáng, tiếng tháo xích lích kích ở cổng phà vang lên, vài xe ba gác, mấy chiếc xe máy, hai ba người đi bộ vội vã bước lên phà. Chuyến phà đầu ngày, như thường lệ chỉ lác đác chục khách đi phà. Lái phà Nguyễn Thanh Hùng vừa kéo hồi còi hụ thật dài báo hiệu phà rời bến vừa nói: “Hồi trước thì chạy thâu đêm, giờ ít khách nên 4g sáng mới chạy. Dù sao bà con đi lại quen giờ, mình đâu bỏ được”.

23g50, lái phà Nguyễn Thanh Hùng cho phà không tải chạy từ phía Thủ Thiêm sang quận 1 đón người khách cuối cùng. Chuyến phà cuối cùng ấy số khách đếm không đủ bàn tay. Nhưng ông Nguyễn Công Dân - phó giám đốc bến phà Thủ Thiêm - khẳng định: “Chừng nào có lệnh thì nghỉ, còn giờ một khách phà cũng qua rước”. Ông Dân cho biết dù từ 0g-4g sáng phà ngưng chạy nhưng lúc nào cũng có nhân viên lái phà, thủy thủ, thợ máy trực. “Anh em thỉnh thoảng vẫn gặp những trường hợp cấp cứu, sinh nở qua phà, lúc đó bất kể giờ nào anh em cũng nổ máy đưa qua sông và không lấy tiền” - lái phà Nguyễn Thanh Hùng kể.

Ở giữa phà, bà Tư cùng đứa cháu đang sửa lại nắp hai thùng cá đồng đưa sang chợ Tân Định bỏ sỉ. Nhà bà Tư ở ấp Bình Lợi (Thạnh Mỹ Lợi, quận 2), đã hơn 30 năm nay ngày nào bà cũng đi phà vào giờ này để mang cá vào trung tâm thành phố kịp buổi chợ sớm. Bà Tư thủng thẳng: “Có con phà này tui ngủ thẳng giấc hơn chút đỉnh, nhớ hồi cầu phà bị tung sập, nghỉ chạy đâu chục bữa, đi vòng qua cầu Sài Gòn xa lắc, vô tới nơi bạn hàng bỏ mối hết trơn”.

Bà Tư có lẽ là một trong những chứng nhân miệt mài nhất về sự tận tụy của phà Thủ Thiêm từ những ngày sau tháng 4 năm 1975, khi đi phà từ hồi giá vé có 1 đồng rồi tăng dần đến 1.000 đồng như bây giờ. Có điều khác với những thứ tăng giá khác, giá vé phà có tăng bà Tư cũng chẳng chút phàn nàn, bà chỉ nói: “Mà lạ, cái gì tăng hết trơn rồi mới tới vé qua phà” - như đúc kết cái điều lạ lùng nhất của cả một quãng thời gian đi phà của mình.

Câu chuyện giá vé đi phà rẻ bèo không chỉ có ở thời bà Tư mà hình như từ thuở có phà, trước nữa là đò ngang, vé phà đò qua lại giữa hai bờ Thủ Thiêm - Sài Gòn rẻ đến mức khó thể rẻ hơn. Ông cụ Nguyễn Văn Đồ, nay đã 80 tuổi, ở số 19 Lương Định Của, sát nách bến phà, cũng kể: “Hồi 60 năm trước, tui từ Cần Giuộc lên đây làm thợ hồ giá cũng rẻ như giờ”. Lâu quá, ông Đồ chẳng nhớ hồi đó giá bao nhiêu đồng bạc kẽm, nhưng mà nhớ giá đi phà chỉ bằng nửa giá cái bánh tiêu, bánh bò mà bọn con nít đội bán hai đầu bến.

Ký ức của ông Đồ cũng rõ mồn một về những ngày chớm tết, khi phà Thủ Thiêm đã là “cứu cánh” cho cả trăm vườn mai từ An Khánh, An Lợi Đông, Thủ Thiêm... đưa sang Sài Gòn bán tết. “Úi, đông lắm à, kẹt xe còn hơn bây giờ. Lối đường Nguyễn Tường Tam (tức đường Lương Định Của bây giờ ) từ bến phà người đi bộ, xe ba gác, xe 67 hà rầm, gánh hàng bông chờ phà tới nửa cây số”. Kể lại, trong mắt ông Đồ dường như vẫn còn nguyên sự náo nức như đoàn dân nghèo từ Thủ Đức, Nhơn Trạch nhờ con phà mà tiện đường nối nhau vào Sài Gòn sắm tết năm nào.

Nối nhịp giao thương

Ông Đồ, bà Tư và bao nhiêu người dân nghèo phía Thủ Thiêm mỗi khi nhắc đến phà Thủ Thiêm vẫn nói bằng một giọng lẫn ít nhiều sự hàm ơn. Ký ức của họ về con phà có thể chỉ gói ghém trong những mớ cá bán được giá, những ngày tết náo nức được gần hơn với phố xá năm nào. Nhưng rộng hơn, với cả đất Sài Gòn và miền Đông, đã từ trăm năm, phà Thủ Thiêm đóng một vai trò rất quan trọng trong việc nối nhịp giao thương.

Bà Nguyễn Thị Thảo (77 tuổi), nguyên hiệu trưởng Trường tiểu học Trần Văn Cam (nay là Trường THCS Thủ Thiêm), kể năm 1947 khi mới 12 tuổi, mỗi ngày qua phà Thủ Thiêm để đi học bà vẫn còn nhớ “bước chân khỏi phà là đi đâu cũng tiện hết trơn”. Rời khỏi phà, từ bến Chợ Cũ ở góc đường Hàm Nghi bây giờ hay từ đường Tự Do (Đồng Khởi bây giờ) chỉ bước thêm chút ít là tới ga xe lửa Bến Thành để về Mỹ Tho, ra Biên Hòa. Bà Thảo cũng nhớ mỗi khi nhà có đám hay gần tết, bà lại theo những chuyến xe điện nối từ bến phà lên chợ Nancy, Chợ Lớn để mua vải vóc hay đồ làm đám cúng quảy rất tiện.

Ông Hải Đường, một nhà nghiên cứu văn hóa về Sài Gòn, nhận định đã có gần nửa thế kỷ, ít nhất cho đến năm 1964 khi cầu Sài Gòn được xây, phà Thủ Thiêm và những chiếc đò ngang bé nhỏ đã đóng vai trò là cửa ngõ của Sài Gòn. Khi đó từ bến phà có những con đường ngắn nhất nối Sài Gòn đến Biên Hòa, Nhơn Trạch, Vũng Tàu. Cùng với vai trò khai mở nên vùng đất mới, phà Thủ Thiêm từ những năm đầu thế kỷ khi dân cư còn thưa thớt đã được người Pháp nhìn ra vị thế đắc địa về quân sự khi cho tu bổ con đường nối thẳng từ phà Thủ Thiêm đến Cát Lái, qua những đồn điền cao su Nhơn Trạch đổ ra hướng Vũng Tàu để xe hơi có thể chạy được. Khi đó, ngoài việc giao thương, Pháp còn sử dụng phà Thủ Thiêm và trục đường Lương Định Của, Nguyễn Thị Định bây giờ làm đường tải thương, vận chuyển quân nhu cho thành Cát Lái.

Ba thế hệ phà

Bây giờ những chiếc phà Thủ Thiêm có tải trọng 60 tấn, mỗi chuyến phà chỉ mất chừng 3 phút để nối hai bờ sông Sài Gòn. Nhưng đó đã là thế hệ phà thứ 3, không kể mỗi đời phà còn bao nhiêu lần cải tiến mới có được sự tiện dụng và an toàn như vậy. Một trong những người lái phà Thủ Thiêm cao tuổi nhất còn sống là ông Năm Béc (tên thật là Ngô Văn Chơn) năm nay 88 tuổi, nhà ở phường Phước Long A (quận 9), kể: “Từ cái phà tới cầu phà bây giờ ngon lành lắm rồi, chớ hồi xưa qua phà cực lắm, lái phà cực mà khách cũng cực”.

Ông Năm Béc nói không kể những năm đầu thành lập bến phà vào đầu thế kỷ 20, bến phà Thủ Thiêm vẫn chỉ là những chiếc đò chèo, sau nữa mới có ghe máy. Tới những năm 1930, thế hệ phà máy đúng nghĩa đầu tiên mới xuất hiện, có thể chở được ôtô thay vì chỉ chở người. Thời đó còn nhỏ, ông Năm Béc không nhớ rõ chiếc phà ấy chạy bằng than đá hay bằng dầu nhưng có một chi tiết mà ông cũng như những người đi phà cao tuổi còn sống đều nhớ, đó là trên cầu dẫn xuống phà có một mâm quay. Xe hơi muốn qua phà đều phải chạy lên chiếc mâm quay này để xoay đầu rồi mới chạy xuống phà. Ông Năm Béc kể mâm quay hồi đầu quay bằng tay, “có xe hơi xuống là cực lắm, quay mâm còn lâu hơn chạy phà” - ông Năm Béc nhớ lại.

Những chuyến phà phải nhờ đến mâm quay hỗ trợ ấy tồn tại mãi đến năm 1964, khi cầu dẫn vào phà được sửa lại cùng với thế hệ phà máy hiện đại hơn do xưởng Caric ngay cạnh bến phà đóng. Đó là bốn chiếc phà hình bầu dục (mà dân đi phà vẫn quen gọi là phà “hột vịt”) bây giờ vẫn còn đưa khách. Ông Năm Béc kể: “Mấy chiếc phà “hột vịt” giờ nhiều khách đi phà chê không muốn lên, nhưng hồi đó (năm 1964) có phà “hột vịt” dân Thủ Thiêm mừng ghê lắm”. Đó là thời điểm dân chạy loạn vì chiến tranh về Thủ Thiêm cắm dùi ngày một đông, nhờ có nó mà xe hơi, xe tải, ba gác phà phà qua bên Sài Gòn, làm ăn cũng thuận tiện hơn. Ông Năm Béc cho biết khi đó những chiếc phà “hột vịt” này chở được nhiều khách hơn bây giờ vì có tới hai tầng, nhưng sau giải phóng thấy phà quá cao không an toàn khi chạy trong những ngày mưa gió nên cắt bớt chỉ còn một tầng.

Phà Hột Vịt

Phà “hột vịt” của xưởng Caric được coi là đã mở ra một chương mới trong công việc vận chuyển khách của phà Thủ Thiêm. Nhưng lái phà Nguyễn Thanh Hùng, người đã gắn bó với phà Thủ Thiêm từ năm 1975 đến nay, nói: “Đó là so với gần 50 năm trước, chứ mấy chiếc phà “hột vịt” đó cũng từng làm nhiều anh em khốn đốn, thậm chí mang thương tật khi vận hành”. Thời đó mâm phà (phần phía trước để cập bến) được điều khiển bằng tay quay chứ chưa điều khiển tự động. Gặp nhiều hôm trời mưa, tay quay trơn bị tuột, mâm phà tự hạ xuống kéo tay quay quay tự do đã làm nhiều anh em bị thương, thậm chí gãy xương đòn, gãy tay. “Cho tới khi có phà 60 tấn năm 1998, rồi phà “hột vịt” được cải tiến: cắt mui, làm tay quay tự động, anh em làm trên phà mới thật sự an tâm” - ông Hùng kể.

Thời gian khó...

Ông Trần Quang Đăng, một thợ máy đã có 32 năm bảo dưỡng cho những chuyến phà Thủ Thiêm, quệt mồ hôi trán sau ca trực dài hai tiếng, cười tươi nói: “Giờ máy tốt, phụ tùng cũng sẵn, chứ hồi đó chạy giữa chừng, phà chết máy trôi tuốt xuống Ba Son là chuyện cơm bữa”. Chuyện trôi phà ông Đăng nói hầu như những người từng đi phà Thủ Thiêm những năm bao cấp đều vài phen ú tim. Mỗi lần vậy lại phải nhờ Hãng Caric điều phà hoặc tàu ra lai dắt về, may mà trong suốt những năm tháng ấy chưa có chuyến phà trôi nào va chạm với tàu bè qua lại trên sông Sài Gòn.

“Phà chết máy giữa sông thành chuyện thường nên phà chết máy trên bến còn thường hơn. Mỗi lần khách đi phà là được dịp xếp hàng mòn mỏi” - ông Đăng kể tiếp. Lý do là phụ tùng thiếu, thỉnh thoảng phà bị hư dây cuaroa, bạc đạn. Mỗi lần vậy phải báo cáo phòng cung tiêu đặt mua, phà nằm treo bến đến hàng tuần. Cái thời khó khăn ấy không những làm cho phà Thủ Thiêm vận chuyển ì ạch mà còn xảy ra nhiều chuyện vừa buồn vừa cười. Dầu máy khan hiếm nhưng có những lần anh em phải cho tàu nổ máy suốt đêm suốt ngày dù tàu không đưa khách. Lý do là ăcquy bị hỏng, không kịp thay thế và phải cho tàu nổ máy, nếu không thì đến ca chạy không thể nào nổ máy được.

Những ký ức về một thời khốn khó ấy chưa phải là điều khó khăn nhất mà anh em trên phà từng trải qua. Lái phà Nguyễn Thanh Hùng kể thời sau 1975 Thủ Thiêm là đất dữ, giang hồ tứ xứ tụ về, trộm cướp, mại dâm, ma túy không thiếu thứ gì và đò ngang giành khách tung hoành. Chuyện các nhân viên nữ soát vé cho tới thủy thủ, thợ máy bị khách đi phà đánh xảy ra như cơm bữa. Nhưng vì sự an toàn, anh em cứ nín nhịn, có người chịu không xiết phải bỏ nghề. Còn lái phà như ông Hùng, mỗi lần lên buồng lái là đầu óc như căng lên vì đò ngang gắn máy đuôi tôm gần cả trăm chiếc lúc nào cũng giành khách chạy loạn xạ trước mũi phà, không ai quản nổi. Ông Hùng kể nhiều lần lái phà đã cho phà rời bến cả chục mét nhưng bị mấy tay anh chị vẫy lại, kêu vô rước. “Vậy mà mình cũng phải vô, chứ không là coi như bỏ phà mà đi luôn” - ông Hùng nhớ lại.

Không ít người ra đi nhưng nhiều người vẫn ở lại, bám trụ đưa khách qua sông. Ông Đoàn Đức Hải, có hơn 20 năm làm thủy thủ trên phà Thủ Thiêm, nói: “Mỗi lần phà gặp sự cố hay chậm chuyến thấy bà con xếp hàng dài đứng đợi là lòng ai cũng như lửa đốt. Khách đi phà nhiều người quen mặt, không biết tên mà bước xuống phà chỉ cười với nhau một cái cũng thấy gắn bó, không rời xa phà được”.

Bởi thế, nói như ông Nguyễn Công Dân - phó giám đốc phà Thủ Thiêm: “Những ngày này 44 nhân viên phà Thủ Thiêm ai cũng ưu tư”. Ưu tư không chỉ vì chưa biết mai mốt bến phà đóng cửa mình sẽ làm gì, mà còn cả vì những ký ức trầm nổi với bến phà.

Từ năm 1975 đến nay, phà Thủ Thiêm chỉ có hai lần phải ngừng chạy, đều do những nguyên nhân khách quan. Lần gần nhất là vào tháng 6-2006, sau khi bị tàu Longfu đâm vào cầu dẫn phía quận 1, phà Thủ Thiêm phải ngưng chạy 11 ngày để sửa chữa.

Còn lần trước đó phà Thủ Thiêm ngưng chạy chính là vào tháng 4-1975, từ ngày 27 đến 30-4-1975. Do Saigon có sự đổi thay.

Phà Thủ Thiêm 1975

100 năm, phà Thủ Thiêm đã chở không biết bao cuộc mưu sinh, chưa bao giờ bỏ lại ai, kể cả những người nghèo nhất trên đường tìm kế sinh nhai. Bởi vậy những ngày sắp khép lại sứ mệnh của con phà lịch sử này, bên cạnh niềm vui về một công trình mới - hầm Thủ Thiêm - còn có cả nỗi âu lo và hoài tiếc. Như bà Tư bán cá cứ thắc mắc với những nhân viên phà: “Xe cá của tui, xe đạp của mấy bà bạn ve chai, chổi lông gà có được qua hầm hay phải đi đường vòng mấy chú?”. Hay như bà Thảo cứ tuần hai lượt lại đón xe ôm từ nhà mới để được đi lại trên bến phà. Còn ông cụ Đồ đã lọm khọm, cứ mỗi chiều lại bắc ghế ra ngó chơi con phà, lo mai mốt về khu tái định cư không còn sức trở lại...

Mà Sài Gòn thì nhiều lắm những người gồng gánh mưu sinh như bà Tư bán cá còn cần đến phà Thủ Thiêm. Và chắc còn nhiều hơn những người hoài tiếc bến phà xưa như bà Thảo, ông Đồ...



Trở lại Trang Chính