Đã
hơn một lần tôi tái hiện những ngày cuối tháng Tư lịch sử qua những bài viết từ
góc độ của mình. Góc độ của một đứa con liệt sĩ bị mồ côi vào năm 10 tuổi, 14
tuổi vào bưng kháng chiến theo cái lý thù nhà nợ nước và sau đó là tất cả những
năm tháng xây xước không thể
nào quên. Một con người như vậy mà sống sót thì tâm trạng vào tháng Tư năm Bảy
Lăm sẽ thế nào? Ngây ngất như thể tái sinh từ một cuộc đại phẩu, nhìn quanh
thấy bên thắng và bên thua đều khóc ròng vì một nỗi mừng duy nhất: vậy là thôi
súng ống bom đạn rồi, hòa bình rồi, không gì thiêng liêng hơn điều đó!
Mỗi
năm kỷ niệm ngày đại thắng tôi lại chăm chú hơn với những thước phim tài liệu
phát trên các kênh truyền hình. Càng lùi xa thời điểm ấy thì nhu cầu khám phá
lại càng lớn. Cũng phải thôi, cái gì đã thành lịch sử đều trở nên hấp dẫn hơn
với hậu thế và nó lớn vụt lên về kích cỡ cũng như những điều nó chưa được mở ra
trong lòng nó. Tôi thấy rõ hơn từng giai đoạn tâm trạng của mình. Sau vui tràn
thì phải là phơi phới chứ. Đáng lẽ phải là như vậy chứ. Tôi quá mẫn cảm hay dễ
lạc quan hay quá “non nớt về chính trị” mà đinh ninh như vậy? Nhưng hình như đã
có những sự thật khiến thời gian trăng mật với hòa bình ở trong tôi thật ngắn.
Cuộc hôn nhân này có vấn đề gì sao?
Đầu
tiên là những giọt nước mắt bàng hoàng của những người vợ lính cộng hòa trong
gia tộc mình. Ở miền Nam gia tộc nào
cũng có rất nhiều người của bên này và bên kia. Thì ra tiếng những đoàn xe GMC
rung chuyển đường phố và những tiếng la ó thảng thốt tôi có nghe thấy trong
nhiều đêm liền là tiếng của những người lính thất trận đang bị đưa đi đâu đó
một cách bất thần, chính tôi cũng không thể biết. Tôi bắt đầu thấy vị thế hạt
bụi của mình từ đó, khi mà mọi thứ với thân phận người đều do ở đâu đó rất cao
rất xa làm nên chứ chúng tôi thì can dự được mấy. Trong chiến tranh sống và
chết, chúng tôi được bình đẳng hơn nhiều. Sao không có thu xếp khác để có hòa
giải thực sự và để dân tộc có sức mạnh mới hơn, thực sự?
Kế
đến là những ngày muốn mua một mét vải cũng phải lén lút lách vào một cửa hàng
vừa bị cải tạo đang phải bán chui bán nhủi những thứ đã giấu được. Lý thuyết
hòa bình rồi cái gì chẳng có rơi từ ngọn cây thiên đường xuống, không còn manh
giáp tươi hồng nào. Cứ thế,
cải tạo công thương đợt hai rồi đợt ba và những đoàn ghe xuồng nông dân giong
buồm lá dừa nước đi dài từ Long An, Tiền Giang, Bến Tre xuống mạn dưới trong
cơn tháo chạy địa chấn tập đoàn hóa hợp tác hóa. Một lần nữa từng gia tộc lại cưu
mang và vá víu nhau, hạt gạo củ khoai cùng những nỗi niềm có tên là hậu chiến.
Hòa bình thật sự được tính bằng năm hay tính bằng tháng mà lòng người loạn ly
quá đỗi?
Chưa
chi đã lại nghe thấy chiến tranh ở cả hai đầu đất nước. Giang sơn đã toàn vẹn
chứ đâu phải năm 1946 mà không khí có vẻ “ngàn cân treo sợi tóc”? Lần này những
người “non nớt chính trị” chúng tôi đã vỡ lẽ: thế giới giống như một cái xóm
vậy thôi, những nhà giàu bao giờ cũng tìm cách ngồi lại với nhau để định đoạt
và những kẻ thấp cổ bé họng luôn bị họ thu xếp theo kiểu nào đó. Thế thôi.
Chuyện kẻ giàu sẵn và người chưa giàu, chuyện lòng tham và lòng nhân, chuyện
thói đời và bi kịch của khát vọng tiến bộ…Vân vân và vân vân, một nhà văn trẻ
ngộ ra, vừa ngỡ ngàng vừa choáng váng.
1982
có lẽ là thời điểm quan trọng nhất trong nhận thức của tôi về cuộc chiến đã
qua, về hậu chiến đang bao trùm và về những cụm từ như chủ thuyết, quốc gia và
dân tộc. Thật không thể nào quên Trại sáng tác văn học của Hội nhà văn Việt Nam
bên một vũng biển vào loại đẹp nhất Việt Nam nhưng vừa có mấy chục cái xác
thuyền nhân dạt vô. Rất nhiều xác của đàn bà úp sấp. Chắc các bạn đã hình dung
được tâm trạng của lũ nhà văn nhạy cảm chúng tôi trong không khí đó. Thê lương
hết cỡ. Xác một bé trai chừng mười tuổi được kéo lên ngay dưới nhà Trại, trên
một gộp đá trong lúc chờ Công an tới đem đi. Có bao nhiêu người đang ở các trại
cải tạo khắp trong Nam
ngoài Bắc? có bao nhiêu con em các doanh nghiệp thành danh phải đi Kinh tế mới?
có biết bao phụ nữ và trẻ em sợ nước đã bước xuống thuyền ra biển để rồi làm
mồi cho cá? có bao nhiêu mạng người đã ngã xuống nữa ở hai đầu biên cương? Một
dân tộc vừa bất hạnh và vừa cố chấp với nhau, có lẽ chính vì vậy mà nỗi bất
hạnh mới dai dẳng đến thế.
Từ
tháng Tư ấy tới lúc nông dân bỏ xứ chạy nạn tập đoàn là 5 năm, từ hiện tượng
thuyền nhân đến khi chúng tôi được Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh hô hào cỡi trói
là 10 năm. Từng chặng 5 và 10 năm,
đến giờ là 35 năm, chừng ấy thời
gian là đã đủ cho nước Nhật
thành cường quốc bên cạnh nước Mỹ, thời gian cũng đã đủ cho các em bé sinh ra vào thời khắc hòa
bình ấy thành một người đàn ông trang lứa với nhà toán học Ngô Bảo Châu. Số
người Việt Nam
ra đi và không muốn quay về ngày mỗi tăng lên, kiều hối cũng tăng lên và lòng
người vẫn chưa thôi ly tán.
Có
cách kỷ niệm nào khác hơn không? Sao cho bên thắng không kiêu mà bên bại cũng
không buồn đau mãi. Sao cho người Việt ở khắp nơi hướng con tim vào nhau và nhủ
rằng: thôi thì lịch sử, hãy để mọi chuyện phán xét cho đời sau còn chúng ta,
hãy cùng cầu siêu cho mọi vong linh trong thời chiến và cả trong thời bình sau ngần ấy năm qua.