Nguyễn Tất Nhiên

Một trường thiên kịch bản bi ai

Lời người đăng bài : Nhân ngày 03 tháng 8, ngày giỗ lần thứ 27 của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên, chúng ta cùng quay trở lại với những khắc khoải vây quanh cuộc đời và dòng thơ của nhà thơ được mệnh danh là chàng thi sĩ của "Một trường thiên kịch bản bi ai ".


Nguyễn Tất Nhiên – Một trường thiên kịch bản bi ai

Đỗ Trường

Kim Anh sưu tầm

Khi ngôi sao mai Nguyễn Nho Sa Mạc chợt vụt tắt, khoảng trống để lại tưởng như khó có thể bù lấp, thì may mắn thay, trên vòm trời thi ca xuất hiện một Nguyễn Tất Nhiên. Tuy còn tuổi học trò, và khác nhau về thi pháp sáng tạo, nhưng có thể nói, Nguyễn Nho Sa Mạc và Nguyễn Tất Nhiên là hai thi sĩ đích thực. Sự xuất hiện của họ góp phần làm dịu mát, và giải tỏa sự bế tắc của văn thơ, cũng như âm nhạc miền Nam trong giai đoạn chiến tranh khốc liệt nhất của dân tộc.

Đọc và đi sâu vào nghiên cứu, ta có thể thấy, thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh năm 1952 tại Biên Hòa. Ông là hiện tượng rất đặc biệt của văn học miền Nam. Cái đặc biệt ấy, không chỉ ở tài năng chín sớm, mà ta còn thấy rõ ý tưởng, cũng như hình tượng và ngôn ngữ mới lạ trong thơ Nguyễn Tất Nhiên.

Thật vậy, 14 tuổi (năm 1966) cùng với Đinh Thiên Phương, cậu học trò Nguyễn Hoàng Hải với bút danh Hoài Thi Yên Thi đã cho xuất bản tập thơ đầu tay "Nàng Thơ Trong Mắt". Năm 16 tuổi, Hoài Thi Yên Thi in chung tập thơ thứ hai "Dấu Mưa Qua Đất" cùng với bút đoàn Tiếng Tâm Tình. Và sau khi đổi bút danh thành Nguyễn Tất Nhiên, ông cho xuất bản "Thiên Tai" vào năm 1970. Thi tập này là thẻ thông hành, đã đưa Nguyễn Tất Nhiên thẳng vào làng văn. Đây là dấu mốc quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tạo của Nguyễn Tất Nhiên. Dù lúc đó ông vẫn còn ngồi trên ghế trung học Ngô Quyền, Biên Hòa.

Ngay sau đó, một loạt thi phẩm của Nguyễn Tất Nhiên được các nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, Phạm Duy phổ nhạc, tên tuổi ông càng đóng đinh vào lòng người đọc nhiều hơn, nhất là giới sinh viên, học sinh.

Thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên (1952-1992)

Năm 1978, Nguyễn Tất Nhiên vượt biên, và tị nạn tại Pháp. Và ở đó, nhà xuất bản Nam Á đã ấn hành thi tập “Thơ Nguyễn Tất Nhiên” vào năm 1980. Khi đến định cư tại Hoa Kỳ, Nguyễn Tất Nhiên cho in ấn và phát hành "Chuông Mơ" (1987) "Tâm Dung" (1989) cùng thi tập "Minh Khúc". Đặc biệt tập nhạc "Những Năm Tình Lận Đận" của ông sáng tác từ khi còn ở trong nước cho đến ra hải ngoại, do nhà xuất bản Tiếng Hoài Nam, Hoa Kỳ ấn hành, vào năm 1984.

Nếu đọc, và nghiên cứu đầy đủ, ta có thể thấy, ba khía cạnh chính làm nên chân dung nhà thơ tài hoa Nguyễn Tất Nhiên: Tình yêu, ý tưởng và những hình tượng trong thơ, cũng như chiến tranh, sự phân ly tác động đến tư tưởng, cùng cuộc sống bế tắc với nỗi đau tuyệt vọng của ông.

Năm 1992, bước vào tuổi bốn mươi, có lẽ trái tim mong manh, dễ vỡ của người nghệ sĩ Nguyễn Tất Nhiên, không vượt qua được cái bế tắc của cuộc sống, cũng như tâm hồn, nên ông đã tự kết thúc cuộc đời mình. Sự ra đi đang ở độ chín, và sung sức nhất của Nguyễn Tất Nhiên, làm cho rất nhiều người ngơ ngác và tiếc nuối. Và khoảng trống ông để lại không hề nhỏ, suốt mấy chục năm qua, chưa người (thi sĩ học trò) nào có thể thay thế, bù lấp.

Tình yêu, ý tưởng và hình tượng mới lạ trong thơ

Tình yêu chiếm một vị trí quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tạo của Nguyễn Tất Nhiên. Đọc ông, làm tôi nhớ đến thi sĩ Đinh Hùng. Bởi, cái chất cuồng nhiệt đến tận cùng, với những hành động mà người đời cho là điên điên khùng khùng, tỉnh tỉnh say say ấy trong tình yêu của hai thi sĩ quyện chặt vào nhau đến vậy. Không rõ, Nguyễn Tất Nhiên có đọc, hoặc chịu ảnh hưởng tí ti nào từ Đinh Hùng hay không? Bởi, khi đọc ông sự ám ảnh cứ vẩn vơ đeo bám tôi, y như đọc thơ Đinh Hùng vậy. Tuy nhiên, một chừng mực nào đó, tôi nghĩ, Nguyễn Tất Nhiên có chịu ảnh hưởng ý tưởng, xây dựng hình tượng từ Du Tử Lê, ở một số bài viết vào khoảng năm 1970- 1971. Ta có thể thấy, cùng viết nỗi đau của tình yêu: “Tình yêu như dao nhọn/ Anh đâm mình, lút cán” và “Về như dao nhọn/ ngọt ngào vết đâm” hai hình tượng so sánh trong “Khúc Thụy Du” của Du Tử Lê, và “Khúc Tình Buồn” của Nguyễn Tất Nhiên khá tương đồng. Và tất nhiên, “Khúc Thụy Du” đã ra đời sớm hơn “Khúc Tình Buồn” của Nguyễn Tất Nhiên hai năm.

Cái Tôi, cái nghệ thuật vị nghệ thuật là nền tảng, xương sống để làm nên khung thơ Nguyễn Tất Nhiên. Mỗi bài thơ được vắt ra từ cảm xúc của những mối tình đơn độc, nghiệt ngã trong ông. Và thủ thuật đưa tên tuổi thật của người yêu vào thơ, để gõ vào tâm lý (tò mò) của người đọc, nhằm đào sâu vào giá trị chân thực. Tuy nhiên, thủ pháp này, không phải là mới. Bởi, trước Nguyễn Tất Nhiên có Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng hay Du Tử Lê… đã sử dụng nghệ thuật này. Nhưng ở lứa tuổi học trò dám sử dụng, và sử dụng hay như Nguyễn Tất Nhiên, không phải nhà thơ nào cũng làm được. Do những đặc tính trên, nên những bài thơ này, thường có sức sống rất lâu dài. Hoặc trở thành những giai thoại, hay câu chuyện tình sử để lại cho hậu thế:

“…nếu vì em mà ta phải điên tình

cơn giận dữ đã tận cùng mê muội

thì đừng sợ, Duyên ơi, thiên tài yếu đuối

tay tre khô mối mọt ăn luồn

dễ gãy dòn miểng vụn tả tơi xương

khi tàn bạo siết cổ người yêu dấu!

em chẳng bao giờ rung động cũ

ta năm năm nghiệt ngã với tình đầu…”

(Duyên của tình ta con gái Bắc)

Thơ và tình yêu, hai thứ đam mê, cuồng nhiệt nhất đối với Nguyễn Tất Nhiên. Thất bại tình yêu đầu đời như một nhát dao chém tâm hồn ông. Để rồi, mang theo những vết thương bốn mùa luôn mưng mủ ấy, cùng nỗi thất vọng và cô đơn, Nguyễn Tất Nhiên cuộn mình vào trong thơ. Và tưởng chừng thơ ca sẽ làm giảm bớt nỗi đau, giải thoát linh hồn người thi sĩ. Nhưng không phải vậy, bởi cái thất vọng ấy, nỗi đau ấy ủ trong thơ còn nhức nhối, và day dứt hơn sức chịu đựng của con người. “Chỗ Tôi”, là một bài thơ đã bật ra từ cái ung ủ như vậy của Nguyễn Tất Nhiên. Xét về nghệ thuật, đây là một bài thơ dở của ông, nhưng đọc, ta thấy được sự đắng cay, ê chề, như một lời tự thú của thi nhân vậy:

“Tôi có chỉ cho gia đình

Người tôi yêu

Là một nàng con gái Bắc

Mẹ tôi hai lần nhìn

Dáng em đi

Và nói nó còn nhỏ dại

Không hiểu nó thương mày chỗ nào

Tôi trả lời chỗ con làm thi sĩ

Tuy nhiên tôi vừa đau nhói trái tim

Vì hiểu rằng

Muôn đời

Em vẫn ngó tôi nửa mắt

Có gì đâu

Thiên hạ lâu nay cứ nhạo báng tôi khùng!”

Cũng như Lục bát, thơ Ngũ ngôn rất dễ làm, song khó hay. Bởi, từ thơ đến vè có khoảng cách rất gần, nếu nhà thơ không thực tài. Tuy nhiên, ta có thể thấy, những bài thơ hay của Nguyễn Tất Nhiên thường thuộc về thể thơ này. Ngũ ngôn thơ Nguyễn Tất Nhiên hay, không phải chỉ ở tài năng sử dụng từ ngữ, mà còn ở sự hình tượng hóa, cũng như ý tưởng mới lạ.

Nhìn lại văn học sử, dường như chưa ai dám cả gan đưa những hình tượng thánh thiện nơi Thánh đường, cửa Phật để ẩn dụ, so sánh với những cái được cho là kỵ húy như Nguyễn Tất Nhiên. Sự so sánh, tưởng chừng như bất nhã ấy, nhưng thật kỳ lạ, hình ảnh trong thơ Nguyễn Tất Nhiên hiện lên rất độc đáo và tinh tế, đẹp một cách trong sáng và hồn nhiên.

Và “Ma Soeur” là một trong những bài thơ như vậy. Vâng, dù bao nhiêu hạt mưa rơi cũng chưa đủ, chưa thấm bằng tình của người thi sĩ rụng xuống linh hồn thánh thiện ấy: “vai em tròn dưới mưa/ ướt bao nhiêu cũng vừa/ cũng chưa hơn tình rụng/ thấm linh hồn ma-sơ.” Một hình tượng so sánh ẩn dụ, dường như, thi nhân muốn khỏa lấp nỗi đắng cay, bất lực, cùng thủ thuật nhân cách hóa, (hay tưởng tượng) để tự ru hồn mình vậy. Đây là bài thơ rất hay của Nguyễn Tất Nhiên. Và Phạm Duy phổ thành ca khúc: “Em hiền như Ma Soeur”, được nhiều người ưa thích từ gần nửa thế kỷ qua:

“…em hiền như ma-sơ

vết thương ta bốn mùa

trái tim ta làm mủ

ma-sơ này ma-sơ

có dịu dàng ánh mắt

có êm đềm cánh môi

ru ta người bệnh hoạn

ru ta suốt cuộc đời

cuộc đời tên vô đạo

vết thương hành liệt tim!…”

Có thể nói, Nguyễn Tất Nhiên là nhà thơ giàu trí tưởng tượng. Tài năng sáng tạo từ mới, cụm từ mới để tạo nên những hình tượng độc đáo, táo bạo gây sửng sốt, thú vị cho người đọc, xuất hiện ngay từ ngày đầu cầm bút của ông.

Nếu ở bài “Ma Soeur”, Nguyễn Tất Nhiên đã dùng thủ pháp so sánh hình tượng hóa sự thánh thiện của người tình, thì đến với “Linh Mục”, ông hóa thân cho chính mình, để tìm dĩ vãng, đi đến tận cùng sự thật của cái địa ngục tình yêu ấy: “Vì tôi là linh mục/ giảng lời tình nhân gian/…tín đồ là người tình/ người tình là ác quỷ/ ác quỷ là quyền năng.” Thật vậy, những cụm từ so sánh ẩn dụ cũ kỹ và dân dã này, đã được thi sĩ đặt đúng văn cảnh trong cái ý tưởng độc đáo của mình, nó trở thành nghĩa mới, hình tượng mới. Bởi vậy, nó gây cảm hứng cho nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang chuyển thành ca khúc “Vì Tôi Là Linh Mục”, được mọi tầng lớp đón nhận, yêu thích, nhất là giới trẻ. Đây là một trong những đặc tính làm nên hồn thơ đặc trưng riêng Nguyễn Tất Nhiên. Đặc tính này xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của ông:

“dĩ vãng là địa ngục

giam hãm đời muôn năm

tôi – người yêu dĩ vãng

nên sống gần Satan

ngày kia nghe lời quỉ

giáng thế thêm một lần

trong kiếp người linh mục

xao gầy cơn điên trăng!

vì tôi là linh mục

giảng lời tình nhân gian

nên không có thánh kinh

nên không có bổn đạo

nên không có giáo đường

một tín đồ duy nhất

vừa thiêu huỷ lầu chuông!…”

Tôi không cân đong, đo đếm kỹ lắm, nhưng dường như thơ Nguyễn Tất Nhiên nằm trong Top được phổ nhạc nhiều nhất từ trước đến nay? Bởi, ngoài ngôn ngữ giầu nhạc tính, thanh âm, thì ý tưởng mới lạ trong thơ của ông tạo ra rất nhiều cảm hứng cho các nhạc sĩ sáng tạo. Và cái ý tưởng ấy, như một luồng gió mới thổi vào cái không khí âm nhạc thời chiến lúc đó.

Thật vậy, một loạt các ca khúc của Phạm Duy ra đời từ thơ Nguyễn Tất Nhiên. Đặc biệt có ca khúc "Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ", Phạm Duy đã mượn ý tưởng bài thơ “Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ” và cảm hứng từ “Đám Đông” để viết nên. Có thể nói, đây là bài thơ điển hình về tài năng trí tuệ liên tưởng của Nguyễn Tất Nhiên, đã giúp cho Phạm Duy chuyển thành một ca khúc hay đến vậy. Và hơn thế nữa, với tài năng của mình, Phạm Duy vẫn giữ nguyên được sự nhẹ nhàng, tính vui nhộn cùng từ ngữ mộc mạc của bài thơ: “cô Bắc Kỳ nho nhỏ/ tóc “demi-garçon”/ chiều đạp xe vô chợ/ mắt như trời bao dung/ đời chia muôn nhánh khổ/ anh tận gốc gian nan/ cửa chùa tuy rộng mở/ tà đạo khó nương thân/…qua giáo đường kiếm Chúa/ xin được làm chiên ngoan/ Chúa cười rung thánh giá/ bảo: đầu ngươi có sừng!”

Vẫn mang tâm trạng oán trách buồn đau, khắc khoải của “Hai Năm Tình Lận Đận”, do Phạm Duy phổ nhạc, Anh Bằng đã đưa bài lục bát “Trúc Đào” vào âm nhạc mượt mà, và nhẹ nhàng hơn. Song nó vẫn giữ nguyên được hồn vía của bài thơ. Với tôi, “Trúc Đào” là một bài thơ hay nhất ở thể lụt bát của Nguyễn Tất Nhiên. Nó không chỉ hay về nội dung tư tưởng, mà có lời thơ rất mượt mà: “Chiều xưa có ngọn trúc đào/ Mùa thu lá rụng bay vào sân em…”.

Tuy nhiên, “Khúc Tình Buồn” được Phạm Duy phổ nhạc với lời tựa “Thà Như Giọt Mưa, cho tôi nhiều cảm xúc nhất. “Khúc Tình Buồn” thuộc thể tứ ngôn, là một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Tất Nhiên. Bài thơ, ông viết khi đang là học sinh năm cuối trung học. Vẫn thủ pháp so sánh ẩn dụ, Nguyễn Tất Nhiên đã mượn hiện tượng của tự nhiên giãi bày nỗi lòng đớn đau, sự bất lực của kẻ si tình, của một tình yêu đơn phương: “thà như giọt mưa/ vỡ trên tượng đá/ thà như giọt mưa/ khô trên tượng đá/ có còn hơn không.” Để rồi, từ trong nỗi bất lực, và tình si ấy, người đọc mới chợt nhận ra, cái giá trị tuyệt đối và vĩnh cửu của tình yêu. Tuy nhiên, bác nào đang bị tình phụ, hay tình đơn phương, tim mạch yếu kém, thì chớ nên đọc bài thơ này:

“người từ trăm năm

về qua sông rộng

ta ngoắc mòn tay

trùng trùng gió lộng

người từ trăm năm

về khơi tình động

ta chạy vòng vòng

ta chạy mòn chân”

Nếu trước đó, văn học sử Việt không có những thi sĩ thiếu niên Chế Lan Viên với “Điêu Tàn”, Tế Hanh với “Nghẹn Ngào”, hay Nguyễn Nho Sa Mạc với “Vàng Lạnh”, thì có lẽ không ai tin thi phẩm “Thiên Tai” là do người học trò trung học Nguyễn Tất Nhiên viết ra. Bởi, sự già dặn của bút pháp cũng như tư tưởng, với những câu thơ được ủ chín tâm hồn thi nhân.

Tôi không biết chính xác, bài thơ “Oanh” được Nguyễn Tất Nhiên viết từ khi nào. Nhưng chắc chắn, nó được viết trước tập “Thiên Tai”, lúc đó ông đang học lớp 10 hoặc lớp 11. Một bài thơ già dặn, và lời thơ tuyệt đẹp: “Hãy yêu chàng, yêu chàng như yêu cánh gió/ Chơi giỡn tung tăng hai vạt áo dài/ Gió đưa mây về, trời mưa, bong bóng vỡ/ Chàng đưa tình về, xót ngọn cỏ may.”

Bài “Thiên Thu” viết năm Nguyễn Tất Nhiên 18 tuổi. Với bài thơ này, Nguyễn Tất Nhiên có thể ngồi cùng mâm nhấc lên đặt xuống với các cụ Đinh Hùng, Bùi Giáng… Du Tử Lê rồi. Với tôi, đây là bài thơ toàn bích nhất của Nguyễn Tất Nhiên. Đọc nó, tôi bị ám ảnh, mộng mị hết mấy đêm liền. Cả bài thơ là một câu hỏi tu từ. Không một lời giải đáp, buộc Nguyễn Tất Nhiên lìa hồn mình ra khỏi của cái thế giới hiện thực. Ông co giò chạy trốn quá khứ. Nhưng chạy đâu cũng thấy “chạy vòng vòng” đang “chạy mòn chân” rồi quay về với cái hiện hữu của chính mình. Vâng, đó cũng như một trường thiên kịch bản bi ai, vận vào chính cuộc sống cũng như tâm hồn Nguyễn Tất Nhiên vậy: “…sao thiên thu không là thiên thu?/ nên những người yêu là những ngôi mồ/ tôi đứng một mình trong nghĩa địa/ và chắc không đành quên khổ đau!”

Đang định viết lời kết cho giai đoạn này, cũng như nguyên nhân dẫn đến sự thành công rất sớm của Nguyễn Tất Nhiên, chợt làm tôi nhớ đến câu chuyện. Hôm rồi, tân gia nhà một người bạn, trong lúc khật khừ, tôi buột miệng nói với một bác nhà thơ cộng đồng đến từ Berlin: Với tôi, kể từ sau 1954 đến nay (2019) văn học Việt Nam ở tuổi học trò, có hai thi sĩ tài năng nhất. Đó là Nguyễn Nho Sa Mạc, người xứ Quảng, với tập thơ “Vàng Lạnh”, và nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên người xứ Nam, với tập thơ “Thiên Tai”. Bác nhà thơ này, goặc lại tôi: Ông nói thế chó nào ấy chứ, xứ Bắc có không ít các thần đồng thơ, chả lẽ không đáng nói đến sao. Tôi bảo bác ấy: Đây là ý kiến chủ quan của cá nhân tôi, có thể là sai. Nhưng ta có thể thấy, trong giai đoạn đó ở miền Bắc cũng xuất những tài năng thi phú trẻ, và được gắn mác mỏ thần đồng như: Hoàng Hiếu Nhân, hay Trần Đăng Khoa… Tuy nhiên, các thần đồng thi ca này, được các nhà thơ tên tuổi Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Trần Nhuận Minh… chăm sóc, định hướng tư tưởng rất kỹ càng. Do vậy, có những câu thơ của họ đọc lên cứ tưởng của Diệu, của Chế, của Minh. Hơn nữa, mấy “thần đồng” này chỉ làm được thơ thiếu niên, nhi đồng. Sau này, Hoàng Hiếu Nhân bị tịt ngòi không viết lách được nữa. Còn Trần Đăng Khoa viết lay lắt, với những dấu ấn mờ nhạt. Thành thật mà nói, nếu ngoa ngôn dùng danh từ thần đồng để đo lường tài năng thi phú, thì với tôi, kể từ khi xuất hiện thơ mới đến nay, chỉ xảy ra một lần duy nhất. Đó là cậu bé thần đồng Chế Lan Viên với thi tập “Điêu Tàn”. Một tập thơ vừa ra đời đã trở thành cổ thi.

Kinh hơn nữa, thời gian gần đây chẳng hiểu ăn phải cái bả gì, mà ông Giáo sư Phong Lê, ông Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam “cựu thần đồng” Trần Đăng Khoa cùng một số nhà thơ, nhân vật tên tuổi phát động cuộc thi “Sáng tác văn tế Đại thi hào Nguyễn Du”. Một việc làm hoặc ấu trĩ, hoặc của chùa cùng nhau chia oản. Quả thực, xa Việt Nam đến quá nửa đời người, vậy mà nghe cái từ phát động, với phong trào tôi sởn hết cả người.

Nghệ thuật Lục bát, tài năng thi phú của cụ Nguyễn Du đã được khẳng định từ mấy trăm năm qua cùng với Kiều Truyện. Không còn bàn cãi. Tuy nhiên, hồn vía của tác phẩm này thuộc về anh ba Tàu phương bắc. Do vậy, với tôi những tác phẩm Việt thuần chủng (Việt tính) đi vào lòng người hơn, từ mấy trăm năm qua phải là: Đặng Trần Côn với “Chinh Phụ Ngâm”, hay Nguyễn Gia Thiều với “Cung Oán Ngâm Khúc”.

Dài dòng một chút về vấn đề này để cho thấy, miền Bắc không phải, không có những tài năng trẻ, từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhưng với sự dẫn dắt, tư tưởng đến nay vẫn còn như thế này, thì tài năng nào không thui chột, hoặc biến dạng mới là chuyện lạ. Cũng may, Nguyễn Tất Nhiên sinh trưởng ở miền Nam, bằng không cũng mất hút con mẹ hàng lươn như “thần đồng thơ” Hoàng Hiếu Nhân trên thi đàn là cái chắc.

Chiến tranh, cùng nỗi thống khổ sau cuộc

Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn tang thương nhất của đất nước, tuy không phải là người lính, song Nguyễn Tất Nhiên cũng không thể bước ra khỏi cuộc chiến ấy. Tuy nhiên, cứ tưởng, thơ văn thi phú của ông chỉ ngắc ngư với giăng hoa, ong bướm, “Oanh”, “Duyên”, “Minh Thủy”. Nhưng tôi đã lầm. Mảng viết về thế sự, xã hội tình người của Nguyễn Tất Nhiên không hề nhỏ. Viết về chiến tranh, dường như bút pháp, cũng như nội dung hiện thực ông đào sâu vào khía cạnh rất khác so với các thi sĩ cùng thời. Bởi, đọc ông, tôi không hề thấy tiếng bom rơi, đạn nổ, vậy mà khói lửa, chết chóc thương đau trải dài trên trang thơ của ông. Thật vậy, vừa rời ghế nhà trường, (19 tuổi) Nguyễn Tất Nhiên đã viết “Chiều Mệnh Danh Tổ-Quốc”. Một bài thơ, không chỉ người lính, hoặc những người trải qua chiến tranh, mà tôi, kẻ chưa hề biết đến súng đạn, vậy mà ngồi đọc, và viết cũng phải rưng rưng:

“…Chiều quân đội nghĩa trang

Chiều mệnh danh tổ quốc

Có muôn ngàn câu kinh

Có muôn ngàn tiếng khóc

Có chuyến xe nhà binh

Đưa “Thiên Thần” xuống đất

Còn ai, còn ai chăng?…”

Có thể nói, từ thơ tình đến thơ thế sự của Nguyễn Tất Nhiên bài nào cũng vậy, rất nhẹ nhàng, không hề lên gân, song đã gieo vào lòng người đọc nỗi đau day dứt khôn nguôi.

Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến, thân phận người lính càng bi đát hơn. Sự kiên cường của họ trước sự hèn nhát, tháo chạy của những cấp lãnh đạo cao nhất, làm cho Nguyễn Tất Nhiên xúc động: “Về trên nạng gỗ mà trông/ Lô nhô lãnh đạo cong lưng bôn đào.” Thật vậy, sự đồng cảm đối người lính trong thơ ông, không chỉ trong chiến tranh, mà ngay sau cuộc chiến, ta càng thấy đậm nét hơn. Chiến tranh qua đi, nỗi đau về thể xác lẫn tâm hồn của người lính thương phế binh, và những hệ lụy cho gia đình, cháu con còn bi thương, rách nát hơn gấp nhiều lần. “Về Trên Nạng Gỗ” là một bài thơ như vậy. Nó là một trong những bài thơ thế sự hay nhất, từ trước đến nay, mà tôi đã được đọc. Tính hiện thực như một bản cáo trạng đối với chế độ xã hội đương thời của nhà thơ, cùng lời cảm thông sâu sắc, xoa dịu nỗi đau của con người. Đọc xong bài thơ này, tôi không còn biết đây là thơ, hay là lời ru nỗi đau của Nguyễn Tất Nhiên. Các bạn đọc lại đoạn trích dưới đây, xem có cảm giác như tôi không:

“…Về trên nạng gỗ mà trông

Chín năm chinh chiến đeo tròng nguỵ quân

Con thơ nhục nhã đến trường

Ê a phỉ báng máu xương cha mình

Cha “lính nguỵ” – con tự nhiên

Thành phần không được ngóc lên làm người

Học vừa đủ biết đọc thôi

Đủ làm gia súc hiểu lời Đảng sai

Hãy cười đi phế binh ơi

Một tay cũng rán mà… moi củ mì

Từ đây dỗ đói thường khi

Ru con tôi hát não nề ca dao”

Cái đau của người thi sĩ là ru được người chứ không thể ru được chính mình, tâm hồn mình. Do vậy, trong cái bi đát đó, Nguyễn Tất Nhiên buộc phải trốn chạy, hay tìm đến: “Ta mời ta viếng mộ/ Lìa thảm cảnh dương gian.” Và cầu Nại Hà cũng đã bị gãy nhịp, người thi sĩ quay về nơi địa ngục. Không nghe lời sám hối, mà vọng lên tiếng kêu than thỉnh cầu của thi nhân: “Phải sống nơi địa ngục/ Mới hiểu thấu thân ta.” Dường như không có lời đáp vọng lại. Bởi, sự bất lực, hấp hối tro tàn ấy, đâu chỉ riêng thi sĩ:

“…Ta mời ta viếng mộ

Lìa thảm cảnh dương gian

Chúa Phật còn lui chân

Trước bạo quyền chế độ

Huống hồ chút hư danh

Nguyễn Tất Nhiên thống khổ

Ôi chữ nghĩa văn chương

Bất lực, càng bất lực

Phải sống nơi địa ngục

Mới hiểu thấu thân ta

Đôi mắt người ngây thơ

Không hề vương vấn tội

Có chở tình ta theo

Tới cõi nào diệu vợi?

Lửa đời ta đã lụn

Đang hấp hối tro tàn”

(Tháng 11, Thơ Mưa)

Thành thật mà nói, chỉ khi đi sâu vào đọc, tôi mới nhận ra thơ văn Nguyễn Tất Nhiên luôn gắn liền với xã hội và đời sống của con người. Thơ của ông có tính thời sự cao. Tôi nghĩ, mảng đề tài này góp phần không nhỏ làm nên sự nghiệp sáng tạo của ông. Nhưng dường như, bấy lâu nay chúng ta đã quên hẳn nó. Do vậy, văn học sử Việt Nam rất cần những nhà nghiên cứu khai quật, đánh giá cho thật đầy đủ, và khách quan về thơ văn Nguyễn Tất Nhiên.

Chia ly, với cuộc sống bế tắc, cùng những nỗi đau tuyệt vọng.

Ra đi là con đường duy nhất để giải thoát Nguyễn Tất Nhiên ra khỏi nơi địa ngục. Con thuyền lá tre kia vừa cập bến tự do, thì linh hồn ông đã chết ngay khi đặt chân lên miền đất lạ: “kẻ vượt biển đã tới bến mạnh lành/ nhưng chết ngay khi đặt chân lên bờ đất.”

Những mâu thuẫn nội tâm, và bi kịch của người thi sĩ bắt đầu từ đó. Để rồi, cuộc sống và thi ca Nguyễn Tất Nhiên luẩn quẩn trong cái vòng tròn định mệnh ấy. Có thể nói, đây là tâm lý chung của tất cả các văn nghệ sỹ trốn chạy sau biến cố 1975, chứ không riêng Nguyễn Tất Nhiên. Tuy nhiên, sự hòa nhập, nghị lực và khát vọng tự do, khát vọng sống của mỗi con người khác nhau. Bài thơ Paris, Khúc Tháng Chín” được Nguyễn Tất Nhiên viết trong tâm trạng, và hoàn cảnh như vậy. Đây là bài thơ hay, một lần nữa chứng minh cho ta thấy, sự liên tưởng, trí tưởng tượng phong phú của ông:

“…kẻ leo rào đã chụp được Tự Do

nhưng tức thời buông tay bổ ngửa

là ta

phải, ta đánh rơi ta

nát vụn

sau khi đánh rơi Việt Nam

bên kia bờ biển mịt

cây cối sẽ phục sinh vào đầu tháng tư năm tới

phần ta

cách gì tươi tắn lại

khi đời đã sang thu

cộng với lần bứng gốc…”

Những năm tháng ly hương, cuộc sống Nguyễn Tất Nhiên, dường như hồn đã lìa khỏi thân xác. Với ông, đó là những nỗi đau và cô đơn không có thể bù lấp: “Quê hương đã lìa/ Người tình đã xa/ Bạn bè đã tàn/ Mọi thứ đã rã tan cùng đại dương xanh”. Do vậy, với tâm hồn, nghị lực mong manh yếu đuối luôn làm cho người thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên chán nản bi ai: “Có lẽ em không hay/ Đôi cánh chàng đã gãy.” Tuy vậy, cùng nỗi nhớ thường trực, trái tim mẫn cảm của người nghệ sĩ luôn hướng về quê hương, đất nước. “Nhớ Nội”, là một bài thơ thất ngôn như vậy. Một bài thơ hay và cảm động, tiêu biểu cho tâm trạng của Nguyễn Tất Nhiên trong giai đoạn này:

“…từ lúc giặc về, con biệt xứ

nát lòng chim quốc nhớ quê hương

mấy thu vàng úa đời xa cội

chẳng biết mộ phần nội có yên?”

Bi kịch gia đình, bi kịch xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng, và thi pháp sáng tác của Nguyễn Tất Nhiên. Đây là giai đoạn nặng nề, cùng cực, cô đơn nhất của ông. Do vậy, những bi ai, u uất đã trải dài từ thi tập “Tâm Khúc” cho đến “Minh Khúc”. Sự chia ly, đổ vỡ của tình yêu và gia đình “…như dao nhọn/ ngọt ngào vết đâm” tan nát trái tim Nguyễn Tất Nhiên. Ông bất lực trong nỗi bơ vơ, và trống trải: “bây giờ em đã xa tôi/ hay là sông núi xa đời lãng du…chim đêm hót tiếng đau tình/ đau tim tôi chở lòng thành kiếm em…”

Giai đoạn này, dường như ông hòa toàn quay về với thể thơ lục bát. Những câu thơ của ông đọc lên như có tiếng ru đời và ru mình vậy. Vâng, hai tập thơ lục bát, cũng không thể cứu rỗi được hồn người thi sĩ. Đoạn trích về nỗi đau, và cô đơn trên con đường mịt mù sương khói trong bài Minh Khúc 90 đã báo hiệu số phận của Nguyễn Tất Nhiên:

“đường không gian – đã phân ly

đường thời gian- đã một đi không về

những con đường mịt sương che

tôi vô định lái chuyến xe mù đời

cu tí ngủ gục đâu rồi?

băng sau, ngoái lại, bời bời nhớ con…”

Có thể nói, nghị lực, và trái tim đa cảm của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên không thể vượt qua được nghịch cảnh ở nơi miền đất lạ. Nó làm cho ông khủng khoảng tinh thần trong nỗi cô đơn đến tuyệt vọng. Nếu nói, cuộc đời Nguyễn Tất Nhiên là một bi kịch, thì diễn viên là ông, và đạo diễn cũng là ông. Và kịch bản ông viết từ hai mươi năm trước đã vận vào đúng cuộc đời, cái chết của diễn viên Nguyễn Tất Nhiên vậy:

“Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ

Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian

Phải đau theo từng hớp rượu tàn

Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định”

Tôi thuộc thế hệ sau Nguyễn Tất Nhiên khá xa, và cũng chưa một lần gặp gỡ, hoặc được quen biết ông. Tuy nhiên, tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên, tôi đã biết khá lâu, khi đọc, hoặc viết về một số nhà văn gốc miền Nam khác. Đôi lúc tâm trạng buồn, vui tôi thường đàn hát những bản nhạc phổ từ thơ của ông, hoặc do ông sáng tác. Và không hiểu tại sao, vài tuần nay như có một sợi dây tâm linh nào đó thôi thúc, buộc tôi tìm đọc, rồi viết về Nguyễn Tất Nhiên. Dù tôi cũng là “tên vô đạo” như ông. Đọc và viết trong vài tuần, sau giờ làm việc, do vậy, tôi nghĩ, không tránh khỏi những thiếu sót, hoặc sai lệch. Nhưng đã đọc, mà không viết, cứ để ứ hự ở trong lòng thì quả thật, có lỗi với Nguyễn Tất Nhiên thi sĩ.

Leipzig ngày 15-3-2019

Đỗ Trường

Nguồn: sangtao.org

Vài dòng tiểu sử :

Nguyễn Tất Nhiên (1952 - 1992), tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh ngày 30 tháng 5 năm 1952 tại xã, Bình Trước, quận Châu Thành Biên Hòa.

Nguyễn Tất Nhiên theo học trường trung học Ngô Quyền từ năm 1963 cho tới năm 1970. Lúc mới vừa lên trung học đệ nhất cấp, Nguyễn Tất Nhiên đã làm thơ. Theo lời những người bạn cùng trường lúc đó, thơ của Nguyễn Tất Nhiên đã rất hay từ nhỏ. Lúc đó Nguyễn Tất Nhiên thành lập thi văn đoàn với bạn học là Đinh Thiên Phương, tên thật là Đinh Thiên Thọ. Cả hai thi sĩ học trò này cùng chung nhau xuất bản tập thơ "Nàng thơ trong mắt" năm 1966, khi đó Nguyễn Tất Nhiên được 14 tuổi. Trong tập thơ này Nguyễn Tất Nhiên lấy bút hiệu là Hoài Thi Yên Thi.

Sự nghiệp của Nguyễn Tất Nhiên thời gian đầu không mấy thành công. Cho đến khi thơ anh được một số thầy giáo gửi đăng báo Sáng tạo của Mai Thảo; rồi Phạm Duy, Nguyễn Đức Quang thấy đó mà phổ nhạc thì mới bắt đầu nổi tiếng.

Sau năm 1975, Nguyễn Tất Nhiên sống ở trong nước cho tới 1980. Trong thời gian này anh học đàn và sáng tác ca khúc với nhạc sĩ Nguyễn Hữu Nghĩa trong bốn năm.

Năm 1980, anh sang định cư tại Pháp, rồi cuối cùng sang Mỹ sống ở Quận Cam. Năm 1987, anh gia nhập Hội Nhà Văn Việt Nam Lưu Vong. Sau anh lấy vợ có tên là Minh Thủy, rồi có với nhau 2 đứa con trai.

Ngày 3 tháng 8 năm 1992, người ta thấy anh nằm chết trong một xe hơi cũ, đậu dưới bóng cây trong sân chùa tại California. Mộ Nguyễn Tất Nhiên nằm trong Vườn vĩnh cửu thuộc nghĩa trang Westminster phía tây Little Saigon (California), và thường được những người du khách Việt đến thăm viếng.

Những bài hát phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên :

  • Chiều trên đường Hồng Thập Tự (tự sáng tác)
  • Khi nào em vượt biển (tự sáng tác)
  • Như màu nắng sân trường (tự sáng tác)
  • Sài Gòn trên đường Nguyễn Du (tự sáng tác)
  • Sông chiều áo trắng (tự sáng tác)
  • Paris thu khúc (tự sáng tác)
  • Trên nát tan tôi (tự sáng tác)
  • Thà như giọt mưa (Phạm Duy)
  • Cô Bắc kỳ nho nhỏ (Phạm Duy)
  • Hai năm tình lận đận (Phạm Duy)
  • Em hiền như Masoeur (Phạm Duy)
  • Anh vái trời (Phạm Duy)
  • Hãy yêu chàng (Phạm Duy)
  • Vì tôi là linh mục (Nguyễn Đức Quang)
  • Trúc Đào (Anh Bằng)
  • Nỗi sầu khổ dịu dàng (Nguyễn Hữu Nghĩa)
  • Lời buộc ràng trăm năm (Nguyễn Hữu Nghĩa)
  • Như những hoàng hôn (Nguyễn Hữu Nghĩa)
  • Xin chở tình ta theo (Nguyễn Hữu Nghĩa)
  • Con sáo sang sông (Võ Tá Hân)


Tác phẩm đã in :

  • Nàng thơ trong mắt (thơ, Biên Hòa, 1966, cùng với Đinh Thiên Phương)
  • Dấu mưa qua đất (thơ, Biên Hòa, 1968, cùng với bút đoàn Tiếng Tâm Tình)
  • Thiên Tai (Thơ, 1970)
  • Thơ Nguyễn Tất Nhiên (thơ góp nhặt từ 1969-1980, nhà xuất bản Nam Á - Paris in lần đầu tiên năm 1980)
  • Những năm tình lận đận (tập nhạc 1977-1984, nhà xuất bản Tiếng Hoài Nam, Hoa Kỳ 1984)
  • Chuông mơ (Thơ từ năm 1972-1987, nhà xuất bản Văn Nghệ - California, 1987)
  • Tâm Dung (thơ, Người Việt 1989)
  • Tính tình con gái 3 miền (Thơ)

(Nguồn : Trích từ Wikipedia)

Vài bài thơ Nguyễn Tất Nhiên

Khúc Buồn Tình

1.

Người từ trăm năm

về ngang sông rộng

ta ngoắc mòn tay

... trùng trùng gió lộng

(thà như giọt mưa

vỡ trên tượng đá

thà như giọt mưa

khô trên tượng đá

có còn hơn không

mưa ôm tượng đá)

người từ trăm năm

về khơi tình động

ta chạy vòng vòng

ta chạy mòn chân

nào hay đời cạn!

(thà như giọt mưa

vỡ trên tượng đá

thà như giọt mưa

khô trên tượng đá

có còn hơn không

mưa ôm tượng đá)

người từ trăm năm

về như dao nhọn

ngọt ngào vết đâm

ta chết âm thầm

máu chưa kịp đổ

(thà như giọt mưa

vỡ trên tượng đá

thà như giọt mưa

khô trên tượng đá

có còn hơn không

mưa ôm tượng đá)

2.

thà như giọt mưa

gieo xuống mặt người

vỡ tan vỡ tan

nào ta ân hận

bởi còn kịp nghe

nhịp run vồi vội

trên ngọn lông măng

(người từ trăm năm

vì ta, phải khổ!)

(1970)

Linh Mục

1.

dĩ vãng là địa ngục

giam hãm đời muôn năm

tôi -- người yêu dĩ vãng

nên sống gần Sa-tăng

ngày kia nghe lời quỷ

giáng thế thêm một lần

trong kiếp người linh mục

xao gầy cơn điên trăng!

2.

vì tôi là linh mục

không mặc áo nhà giòng

nên suốt đời hiu quạnh

nên suốt đời lang thang!

vì tôi là linh mục

giảng lời tình nhân gian

nên không có thánh kinh

nên không có bổn đạo

nên không có giáo đường

(một tín đồ duy nhất

vừa thiêu hủy lầu chuông!)

vì tôi là linh mục

phổ lời tình nhân gian

thành câu thơ buồn bã

nên hạnh phúc đâu còn

nên người tình duy nhất

vừa thiêu hủy lầu chuông!

vì tôi là linh mục

không biết mặt thánh thần

nên tín đồ duy nhất

cũng là đấng quyền năng!

3.

tín đồ là người tình

người tình là ác quỷ

ác quỷ là quyền năng

quyền năng là tín đồ

tín đồ là người tình

thiêu hủy lầu chuông tôi

(vì tôi là linh mục

giảng lời tình nhân gian!)

4.

vì tôi là linh mục

không biết rửa tội người

nên âm thầm lúc chết

tội mình còn thâm vai...

(1970)

Thiên thu

sao thiên thu không là xa nhau?

nên mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu

tôi đứng như cây cột đèn gẫy gập

và một con đường cúp điện rất lâu!

sao thiên thu không là chôn sâu?

nên nắng xưa còn hanh mái tóc nhầu

tôi đứng như xe tang ngừng ngập

và một họ hàng khăn trắng buồn đau!

sao thiên thu không là đường chim?

nên mây năm xưa còn trên tay phiền

tôi đứng như tường vôi luống tuổi

và những tàng xanh chùm gởi quê hèn!

sao thiên thu không là lãng quên?

nên tình xưa còn cháy âm thầm

tôi đứng như căn nhà nám lửa

và những người thân trốn chạy vội vàng!

sao thiên thu không là sương tan?

nên mặt trời xưa còn gượng huy hoàng

tôi đứng như dòng sông yên lặng

và những cánh buồm kiệt sức lang thang!

sao thiên thu không là thiên thu?

nên những người yêu là những ngôi mồ

tôi đứng một mình trong nghĩa địa

và chắc không đành quên khổ đau!

(1970)

Nên thời gian ấy ngùi trông

Nên thời gian ấy ngùi trông

giọt mưa xanh mấy tuổi nàng

tôi nghe lá rụng như vàng áo xưa

hơi tàn tro ấm lần đưa

ba năm khơi lại cũng vừa đủ đau!

sớm, trưa, chiều, tối, ra, vào

người chưa yên nỗi thầm xao xác lòng

nên thời gian ấy ngùi trông

khô như hạt bụi trưa ngừng ngập bay...

ba năm vuốt sợi tình dài

ừ, tôi còn vụng ngón-tay-dậy-thì

thuở nào sầu đã lâm ly

giờ thêm già héo (nhiều khi hận thù!)

lửa đom đóm mỏi mòn, lu

nhưng tôi cứ buồn vi vu thổi hoài

mưa thì mưa thả phai phai

rồi sau đó sẽ một vài tang thương

bởi quen cầm lược soi gương

biết ai ôm gối mộng thường lâu chăng?

giọt mưa xanh mấy tuổi nàng

tôi nghe lá rụng như vàng áo xưa...

(1970)

Nên sầu khổ dịu dàng

Những kỷ niệm đời xin hãy còn xanh

(Có một ngày mình bỏ trường bỏ lớp

Anh cũng đi như luật định trời dành

Em cũng đi như luật định trời dành)

Nắng bờ sông như màu trang vở cũ

Thuở học trò em làm khổ ai chưa ?

Anh muốn khóc trong buổi đầu niên học

Bàn tay xương cầm hờ hẫng văn bằng

Em hãy đứng trước gương làm dáng

Tự khen mình đẹp quá đi em

(Lỡ mai kia mốt nọ theo chồng

Còn đôi chút luyến lưu thời con gái)

Em hãy ra bờ sông nhìn nắng trải

Nhớ cho mình dáng dấp người yêu

(Lỡ dòng đời tóc điểm muối tiêu

Còn giây phút chạnh lòng như ... mới lớn)

Mình hãy trách đời nhau nhiều hư hỏng

Rồi giận hờn cho kỷ niệm đầu tay

Thu miên man không thấy lá vàng bay

Anh phải nói: buồn chúng ta màu trắng

Tình cứ đuổi theo người như chiếc bóng

Người thì không bắt bóng được bao giờ

Anh muốn khóc trong buổi đầu niên học

Bởi yêu em nên sầu khổ dịu dàng

(1970 - Trích tập Thiên Tai)

Ma Sœur

đưa em về dưới mưa

nói năng chi cũng thừa

phất phơ đời sương gió

hồn mình gần nhau chưa?

tay ta từng ngón tay

vuốt lưng em tóc dài

những trưa ngồi quán vắng

chia nhau tình-phôi-thai

xa nhau mà không hay

(hỡi em cười vô tội

đeo thánh giá huy hoàng

hỡi ta nhiều sám hối

tính nết vẫn hoang đàng!)

em hiền như "ma sœur"

vết thương ta bốn mùa

trái tim ta làm mủ

"ma sœur" này "ma sœur"!

có dịu dàng ánh mắt?

có êm đềm cánh môi?

ru ta -- người bệnh hoạn

ru ta suốt cuộc đời

(cuộc đời tên vô đạo

vết thương hành liệt tim!)

đưa em về dưới mưa

xe lăn đều lên dốc

chở tình nhau mệt nhọc!

đưa em về dưới mưa

áo dài sầu hai vạt

khi chấm bùn lưa thưa...

đưa em về dưới mưa

hỡi em còn nít nhỏ

chuyện tình nào không xưa?

vai em tròn dưới mưa

ướt bao nhiêu cũng vừa

cũng chưa hơn tình rụng

thấm linh hồn "ma sœur"...

(1971)

Hai năm tình lận đận

1.

hai năm tình lận đận

hai đứa cùng xanh xao

mùa đông, hai đứa lạnh

hơi thở dài như nhau (?)

hai năm tình lận đận

hai đứa cùng hư hao

(em không còn thắt bính

nuôi dưỡng thời ngây thơ

anh không còn luýnh quýnh

giữa sân trường trao thư!)

hai năm tình lận đận

hai đứa đành xa nhau

em vẫn còn mắt biếc

anh vẫn còn nôn nao

ngoài đường em bước chậm

trong quán chiều anh ngóng cổ cao...

2.

em bây giờ, có lẽ

toan tính chuyện lọc lừa

anh bây giờ, có lẽ

xin làm người-tình-thua

chuông nhà thờ đổ mệt

tượng Chúa gầy hơn xưa

Chúa bây giờ, có lẽ

rơi xuống trần gian, mưa

(dù sao thì Chúa cũng

một thời làm trai tơ

dù sao thì Chúa cũng

là đàn ông... dại khờ!)

anh bây giờ, có lẽ

thiết tha hơn tín đồ

nguyện làm cây thánh giá

trên chót đỉnh nhà thờ

cô đơn nhìn bụi bặm

làm phân bón rêu xanh

(dù sao cây thánh giá

cũng được người nhân danh!)

3.

hai năm tình lận đận

em đã già hơn xưa!...

(1972)

Duyên của tình ta con gái Bắc

Ta sẽ về thương lại nhánh sông xưa

thương lại bóng hình người năm năm trước…

em nhớ giữ tính tình con gái Bắc

nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền

nhớ dịu dàng nhưng thâm ý khoe khoang

nhớ duyên dáng, ngây thơ… mà xảo quyệt!

ta sẽ nhớ dặn dò lòng nên tha thiết

nên vội vàng tin tưởng chuyện vu vơ

nên yêu đương bằng khuôn mặt khờ khờ

nên hùng hổ… để đợi giờ thua thiệt!

nghe nói em vừa thi rớt Luật

môi trâm anh tàn héo nụ-xa-vời

mắt công nương thầm khép mộng chân trời

xin tội nghiệp lần đầu em thất vọng!

(dù thật sự cũng đáng đời em lắm

rớt đi Duyên, rớt để thương người!)

Ta – thằng ôm hận tú tài đôi

không biết tìm ai mà kể lể

chim lớn thôi đành cam rớt lệ

ngày ta buồn thần thánh cũng thôi linh!

nếu vì em mà ta phải điên tình

cơn giận dữ đã tận cùng mê muội

thì đừng sợ, Duyên ơi, thiên tài yếu đuối

tay tre khô mối mọt ăn luồn

dễ gãy dòn miểng vụn tả tơi xương

khi tàn bạo siết cổ người yêu dấu!

em chẳng bao giờ rung động cũ

ta năm năm nghiệt ngã với tình đầu

nên trở về như một con sâu

lê chân mỏng qua những tàn cây rậm

nuôi hy vọng sau ngàn mưa nắng lậm

lá-xanh-em chưa dấu lở loang nào

để ta còn thi sĩ nhất loài sâu

nhìn lá nõn, tiếc, thèm… đâu dám cắn!

nếu vì em mà thiên tài chán sống

thì cũng vì em ta ngại bước xa đời!

1972

Hôm nay

khi không tình não nùng buồn

gót chân ai bỏ con đường nhớ nhung

gót chân ai nhẹ vô cùng

dẫm lên xác-lá-tôi từng tiếng kêu

gót chân ai bước, nhẹ hều

bước qua tôi, bước, hư nhiều thói quen!

khi không tình não nùng buồn

nhớ hôm qua vẫy tay ngừng ngập xa

tóc ai ngắn ngắn, như là

suốt đời chưa chịu thiệt thà chấm vai

suốt đời khét nắng rong chơi

kể như hơi hướm bàn tay tôi, thừa!

mừng em sớm biết lọc lừa

biết ngây thơ giả -- biết đùa với đau!

biệt ly dù ở ga nào

cho tôi ngồi một toa tàu lãng quên...

(1974)

Về trên nạng gỗ

Từ anh cất bước chinh nhân

Nàng làm thiếu phụ thương con xót chồng

Một mùa đông... chín mùa đông

Biên khu cách trở hơn... đồng giấy xanh

Chín năm làm vợ nhà binh

Đồng lương vợ lính bốn con vẫn cười

Trời làm cho đám mưa rơi

Chín năm ai khiến nụ đời vừa tan?

Quê hương sầu nát điêu tàn

Hậu phương tiếng hát buồn chan tháng ngày

Giã từ mái tóc thảo ngay

Giã từ vợ lính tháng ngày xanh xao

Nàng làm má rượu gái đào

Phấn son khách cũng cúi đầu nâng niu

Đời trên bạc lắm tiền nhiều

Nhớ đêm đô thị hơn chiều tắm con

Nghe vui kỷ niệm hao mòn

Đương xuân ai để héo hon tuổi đời

Giã từ tình nghĩa anh ơi

Phấn son em đã chọn đời cho thuên

Ngày kia lính chiến trở về

Với nghìn tâm sự cuối nghề đao binh

Về trên nạng gỗ mà nhìn

Chín năm chinh chiến thương mình làm cha

Chín năm chống nạng về nhà

Bốn con trên một tay bà run run

Hỏi nàng, mẹ bảo: theo chồng

Hỏi nàng, con nói: theo ông mất rồi

Hãy cười đi chiến binh ơi

Sá chi dâu biển dưới trời hợp tan

Bao nhiêu đau khổ trần gian

Gởi chàng cho trọn cưu mang kiếp người

Hãy cười đi chiến binh ơi

Trở về nay đã mắt người phế nhân

Đạn thù cắt mất một chân

Vợ tôi nay chọn ngoại nhân làm chồng

Về trên nạng gỗ mà trông

Lô nhô lãng đạo cong lưng bôn đào

Huân Chương Bảo Quốc đây sao?

Hôm nay là tội giết bao... "anh hùng"

Về trên nạng gỗ mà trông

Chín năm chinh chiến đeo tròng nguỵ quân

Con thơ nhục nhã đến trường

Ê a phỉ báng máu xương cha mình

Cha "lính nguỵ" - con tự nhiên

Thành phần không được ngóc lên làm người

Học vừa đủ biết đọc thôi

Đủ làm gia súc hiểu lời Đảng sai

Hãy cười đi phế binh ơi

Một tay cũng rán mà... moi củ mì

Từ đây dỗ đói thường khi

Ru con tôi hát não nề ca dao

Paris 21/4/80

Tâm nguyệt

từ gót sen hài em hút dấu

sầu tôi như lá thẫn thờ bay

ví dù lá ngập đường em bước

lá cũng xin đừng bận gót ai...

từ mắt chia lòng sông cách núi

sầu tôi như bụi khắp không gian

ví dù bụi ố hoen màu trắng

bụi cũng xin đừng vương mắt xanh...

từ tóc bay xuôi dòng quá khứ

sầu tôi như bóng lặng lờ trôi

ví dù bóng đẳng đeo tròn kiếp

bóng cũng xin dòng tóc thảnh thơi...

từ hơi thở của không gian khác

sầu tôi như lịch nhẩn nha rơi

mỗi ngày thiên hạ hồn nhiên xé

lịch mới, như tờ-thương-nhớ-tôi!

từ hoa môi của bình minh khác

núi đồi vắng cả tiếng thông reo

chim thôi cười chúc mừng hoa lá

thành-phố-tôi già ho động cơ

từ vỡ, lành trăng lồng bóng nước

từ em là nguyệt lộng đời sông

từ tôi là một dòng tâm nguyệt

sông có trăng cười sông xóa trăng...

(06/01/1989)

Tâm duyên

1.

mùa hè anh lên núi

thấy tóc em lành nhiên

cười theo chiều, gió tối

trời đi vào giấc yên

cho sự sống duyên hiền

từng búp hoa huệ nhỏ

cho sự sống hương êm

từng thoảng hoa huệ thở

sự sống trắng tinh im

từng nụ quan-âm nở

im lặng là xin dâng

tặng đời bông hoa nữa...

2.

mùa hạ anh ra đường

thấy mới tinh tất cả

thấy nắng nôi dịu dàng

đang vuốt ve cây cỏ

thấy cây cỏ dễ thương

đang làm duyên, tóc xõa

thấy lửa trời nung ngon

chín bòn bon sự sống

thấy sự sống nhịp nhàng

theo đỏ, vàng, xanh, đỏ...

thấy phố xá từ tâm

đèn cười hoa ba đóa...

(17/01/89)

Tịnh khúc

buồn ơi...

tôi bỏ tôi chìm đắm

trong tiếng làm thinh của ghế bàn

ghế bàn không sẻ chia sầu thảm

nhưng biết làm thinh lặng cảm thông

bàn ghế đâu như người vui nhảm

tọc mạch đời nhau để miệng mồm

buồn ơi, tôi muốn như bàn ghế

chịu đựng đời không biết thở than!

buồn ơi...

tôi bỏ tôi tàn tạ

lạy đời xin một bận ngó lơ

lần té nặng này tôi muốn giữ

cho tim đừng hối hận trèo cao

lần té nặng này tôi muốn sống

buồn ơi, đừng giết chết tình nhau

buồn ơi, tôi muốn hôn đời sống

dù môi nhầu nứt nẻ thương đau!

buồn ơi...

tôi bỏ tôi ngây dại

có phải thu-bồn chở tóc ai

có phải lần run tay vuốt đại

là lần đời biết thứ tha tôi

có phải lần xin tay nắm... đại

là lần té gập dưới bàn tay?

buồn ơi, tôi muốn dâng đời sống

một đóa hồng đau đớn tuyệt vời!

buồn ơi...

tôi bỏ tôi rời rã

bất lực làm sao trước cuộc đời

ừ nhỉ, trước giờ tôi chiến đấu

cho niềm bất lực buổi hôm nay!

ừ nhỉ, bây giờ tôi mới biết

ghế bàn nên kính trọng như thầy

bàn ghế dạy tôi điều nhẫn nhục

dạy tôi bình thản thứ tha đời

bàn ghế có bao giờ bất lực

có bao giờ biết đợi trông chi

buồn ơi, tôi muốn như bàn ghế

thương đời như thể bỉ khinh thôi!

buồn ơi...

tôi bỏ tôi gần chết

tay đời bít lối chẳng ngưng tay

u đầu sứt trán lao vào vách

tội tình tôi sao nặng thế này?

buồn ơi...

trong đám đông tàn nhẫn

một người chứng kiến đủ cho tôi

nhờ ai, tôi đã thành tâm nhẫn nhờ ai,

tôi phục dưới chân đời

buồn ơi, tôi muốn như dòng lệ

cay đời như kẻ thích ăn cay!

buồn ơi...

tôi có tôi-bàn-ghế

nguyện hiến cho đời một tấm lưng

(13/01/89)



Trở lại Trang Chính