Phỏng Vấn Ca Sĩ Kim Tước

Tiếng Hát Tinh Khôi Của Buổi Mai (*)

Trịnh Thanh Thủy

Nhắc tới dòng nhạc tiền chiến hẳn khán thính giả vào những năm trước 75 không quên một giọng hát cao, trong, thanh nhã và hiếm quý của Kim Tước. Kim Tước là một trong những giọng hát làm vừa lòng không những giới thưởng ngoạn biết và yêu nhạc mà cả những nhạc sĩ thuộc thành phần khó tính nhất. Dáng dấp quý phái, tiếng hát chuẩn lúc nào cũng đi sát với kỹ thuật của cô, đã chinh phục được trái tim những người biết nhạc và họ có thể nhắm mắt để thưởng thức mà khỏi cần xem sự phô diễn của ca sĩ. Nhạc sĩ Vũ Thành, ông bầu của ban nhạc đại hoà tấu thời bấy giờ là một ông bầu rất khó tính mà trong đôi tai thẩm âm rất chọn lựa, chỉ có giọng hát Kim Tước và Anh Ngọc vừa tai ông thôi. Đồng thời, Kim Tước cũng được trân quý trong tầng lớp nhạc sĩ qua mấy thế hệ như Dương Thiệu Tước, Nguyễn Văn Quỳ, Vũ Thành, Phạm Duy, cho đến Hoàng Trọng, Văn Phụng, Cung Tiến, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Lê Văn Khoa, Hoàng Quốc Bảo…

Cô tên thật là Nguyễn Kim Tước, sinh tại Nam Định. Cô học trường Pháp và đậu tú tài Pháp. Năm 14 tuổi, cô bắt đầu bước vào ca hát chuyên nghiệp. Trong một cuộc thi tuyển ca sĩ của đài phát thanh Hà Nội, Kim Tước đoạt giải nhất của giọng ca nữ. Kim Tước hát, trên đài Pháp Á, trong ban nhạc giao hưởng của nhạc sĩ Nguyễn Phụng và ban đại hòa tấu của nhạc sĩ Vũ Thành. Năm 1956, cô đã trình bầy một số nhạc phẩm cổ điển của Mozart bằng tiếng Pháp tại dinh tổng thống và là ca sĩ duy nhất được vinh dự nhận hoa trao tặng từ tay tổng thống Ngô Đình Diệm.

Trịnh Thanh Thủy: Thủy được biết chị đi hát từ khi còn bé và đoạt giải nhất trong cuộc thi tuyển lựa ca sĩ của đài phát thanh Hà Nội. Xin chị cho nghe chuyện ngày ấy.

Kim Tước: Lúc đó tôi mới 11 tuổi, Bà Minh Đỗ là dì ruột của tôi đang hát ở đài phát thanh Hà Nội. Tôi mới di cư về thì bà ấy dẫn đi học đàn piano với giáo sư Nguyễn Cầu. Nhà bà có cái đàn piano nên tôi cứ đến tập. Có một hôm bà ấy dẫn tôi lên đài phát thanh để xem bà ấy hát. Thế thì đúng vào ngày hôm đó có cái cô ca sĩ nào đó không biết bị đau nên bà ấy bảo cứ cầm bài mà hát đi. Vì từ nhỏ tôi đã biết xướng thanh nên cầm cái bài hát là hát luôn. Một thời gian ngắn sau, đài phát thanh Hà Nội bắt đầu tổ chức những cuộc tuyển lựa ca sĩ và tôi đã ghi tên dự thi ngay trong lần thi hát đầu tiên. Tôi chiếm giải nhất về giọng ca nữ, trong khi Thanh Hiếu đoạt giải nhất dành cho giọng ca nam.

TTT: Cảm tưởng của chị ra sao?

KT: Tôi không thấy gì hết ngoài sợ. Mà sợ lắm cơ, vì mấy ông giám khảo toàn những tay đại cổ thụ của âm nhạc và đài phát thanh khảo thí như Hoàng Trọng, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Trần Văn Nhơn. v..v..Tôi phải qua đủ các vòng thi cho đến khi vào chung kết thì đã quá khiếp vì sợ. Mãi cho đến lúc sau này lớn lên gặp họ lại vẫn còn sợ. Đã vậy về đến nhà có thêm nỗi sợ bố la mắng, vì ông là người nệ cổ, không thích âm nhạc và theo quan niệm “xướng ca vô loại”. Do đó tôi không cảm thấy vui vẻ gì dù được đoạt giải.

TTT: Tên bài hát đoạt giải của chị? Xin kể một vài kỷ niệm đẹp thưở nhỏ.

KT: Đó là bài “Ngọc Lan” của Dương Thiệu Tước. Ai cũng bảo bài đó khó hát tại sao lại chọn. Tôi chẳng biết tại sao.

Sau khi đoạt giải tôi bắt đầu đi hát ở các đài phát thanh để kiếm tiền giúp đỡ gia đình vì khi ấy gia đình mới di cư từ ngoài Bắc vào còn túng thiếu lắm. Tôi là chị cả trong gia đình 5 con và rất thương hai cụ, nhất là mẹ tôi. Tôi còn nhớ một kỷ niệm suốt đời không bao giờ quên. Khi ấy mẹ sinh cô em thứ ba, tôi khoảng 3, 4 tuổi, mẹ bị đau ngực vì cô em bú không hết nên sữa ứ. Cụ rất nhiều sữa, bà bắt tôi bú cho ngực đỡ đau, đỡ căng. Ối giời ơi, tôi không thể tưởng tượng được sao ngày ấy tôi có thể làm được. Bên Việt Nam thường sau một tuổi, đứa bé thường dứt sữa, tôi lớn rồi mà vẫn phải bú sữa ứ. Mấy đứa sau cũng thế, do đó mỗi lần cụ sinh tôi sợ lắm, một nỗi sợ kinh hoàng xen lẫn mắc cở. Đã vậy sau khi sinh em, cụ thường đau tay chân, tôi hay ngồi giúp mẹ bóp tay chân cho đỡ mỏi. Khi lớn lên, lập gia đình và có con tôi mới hiểu và thương mẹ nhiều hơn. Trời sinh ra phụ nữ với thiên chức làm mẹ phải chịu nhiều đớn đau khi sinh con, vượt cạn, lại còn chăm sóc chúng, cho bú mớm, chịu biết bao đau đớn, nhọc nhằn. Ngày xưa các cụ còn sinh con ở nhà, nên tôi chứng kiến cái cảnh đau đẻ kinh khủng như thế nào.

Tôi cảm thấy may mắn và hãnh diện được trải nghiệm và sống qua những cảnh tượng rất hạnh phúc. Thưở ấy, mỗi mùa hè, mẹ cho về nhà bà ngoại ở Nam Định. Cụ ngoại có một trang trại(ấp) giống như đồn điền vậy. Cụ vừa làm ruộng vừa nuôi gia súc như trâu, bò, ngựa, dê, heo.v.v..Trong trại có một villa lớn. Cụ bắt tôi đi chăn bò, cho bò ăn, vắt sữa bò. Khi ấy, tôi còn bé, sức thì yếu, bàn tay bé tẹo. Tôi nắm cái vú lớn con bò mà vắt, vừa vắt, tay vừa đau, mà con bò thấy khó chịu, đau, nó đá cho một phát. Tuy thế được học những cái ở nhà quê, tôi lấy làm sung sướng lắm. Cụ dạy nuôi tằm, dệt cửi, tự dệt quần áo để mặc. Sau khi dệt thành vải may quần đùi, tôi đem bùn và củ nâu giã nhỏ trét vào vải để nhộm nâu rồi đem phơi. Tôi còn được học cách làm trà sen. Mỗi sớm tinh sương, tôi chèo thuyền nan, thuyền thúng ra hồ sen. Men hai bên bờ hồ có trồng cây vối, tôi hái nụ vối về nấu nước pha trà. Rồi hái sen về, bóc hột đem phơi, và lấy những tia vàng của hoa, đem về ướp trà cho các cụ uống.

TTT: Sở hữu một giọng Mezzo Soprano (Bán Kim), Chị có thể lên cao và xuống thấp trong một âm vực rất rộng. Làn hơi dài giúp chị ngắt câu rất hợp cách. Có những ca sĩ hơi không đủ, mới hát được hai ba chữ đã hết hơi, nên hay ngắt câu tầm bậy, Duy Cường gọi những ca sĩ ấy là chẻ vụn ca khúc như thái rau diếp! Xin chị cho biết âm vực (quãng rộng) của giọng hát chị. Là một ca sĩ được nhạc sĩ Phạm Duy và Vũ Thành ngợi khen và quý trọng vì khi hát chị rất coi trọng kỹ thuật và cảm xúc của tác giả. Xin chị chia sẻ chút kiến thức và kinh nghiệm trong kỹ thuật luyện thanh.

KT: Giọng hát của tôi giúp tôi có thể lên cao và xuống thấp rất dễ dàng, nốt cao nhất tôi có thể lên là nốt Đô. Chuyện mấy ông ngợi khen, thật ra tại ngày xưa mấy ông nhạc trưởng hay nhạc sĩ chỉ muốn ca sĩ hát cho đúng kỹ thuật và bài bản mà thôi, không được nhét tình cảm vào. Trong khi họ sáng tác thì lại dựa trên tình cảm mà viết, nhưng nếu ca sĩ hát theo lối cảm xúc dạt dào thì họ không bằng lòng. Riêng tôi, họ viết sao tôi hát theo làm vậy, không tự mình uốn éo, luyến láy thêm bớt. Ngoại trừ họ viết uốn éo thì tôi uốn éo theo. Một thời gian sau, theo thời thế, dĩ nhiên họ phải chịu sự thay đổi. Chính họ cũng cảm thấy hát cứng quá thiếu sự truyền cảm và khi viết nhạc họ cố viết sao cho có sự truyền cảm hơn. Giới ca sĩ những thế hệ sau này, tự họ tạo ra lối hát riêng của họ. Tôi thì tôi không thể bắt chước, cũng như người khác không thể bắt chước lối hát của tôi được. Thành ra các nhạc sĩ hiểu ra, người ca sĩ này sẽ hát theo lối này, người khác sẽ hát theo lối khác, tự họ sẽ phải mềm mại đi để theo những lối hát khác nhau của các ca sĩ.

TTT: Vào thập niên 60, chị và Châu Hà, Mộc Lan, hợp thành một ban tam ca Mộc Kim Châu nổi tiếng. Xin cho biết phạm vi hoạt động của nó? Đầu thập niên ấy, ngoài ban tam ca nữ này còn có một ban tam ca nữ nào không? Sau khi ra hải ngoại, chị lại cùng Mai Hương và Quỳnh Giao thành lập ban Tiếng Tơ Đồng, ban này hoạt động bao lâu và tại sao lại tan rã.

KT: Ngày ấy tôi, Châu Hà, Mộc Lan hát trong các ban nhạc khác nhau và nhận thấy ba giọng hát hợp nhau(nhưng không giống nhau), nên đã gom lại thành ban tam ca Mộc Kim Châu. Không dám tự hào nhưng ba giọng hát chúng tôi rất hoà hợp. Thí dụ giọng của chị the thé, tôi có thể hát the thé. Nếu giọng của chị xuống trầm, tôi có thể làm theo như vậy được. Chúng tôi đã hiểu nhau đến độ theo nhau, nương nhau mà hát rất thoải mái. Vì thế nó thành một ban tam ca rất quyện nhau. Chúng tôi hát với nhau sung sướng đến độ vừa hát xong một bài, cả ba cùng phá lên cười. Chúng tôi cùng tự hỏi, tại sao có thể hát giống nhau, hợp nhau như một cây đàn đến thế mà không ai ganh tị lẫn nhau. Hát hợp ca khó ở chỗ đó, không có người nào trổ giọng ra, để tỏ ra giọng mình hay hơn, nổi trội hơn người khác. Chúng tôi được nhạc sĩ Hoàng Trọng hướng dẫn và viết hoà âm cho. Chúng tôi trình diễn ở các đài phát thanh, nhiều nhất là Đài Phát Thanh Sài Gòn. Chúng tôi cũng xuất hiện ở vài sân khấu xi nê trong phần phụ diễn trước khi chiếu. Ngày ấy 1 xuất xi nê chỉ dài độ 1 tiếng. Phần phụ diễn thường là tân nhạc hoặc có khi là hài kịch. Ban tam ca ra trình diễn được xem là mới mẻ vì lúc ấy làm gì có tam ca. Chỉ có ban tam ca chúng tôi là độc nhất thôi. Chúng tôi cũng hát phụ hoạ cho các ca sĩ thâu đĩa như Hà Thanh hay Khánh Ly nhưng chưa bao giờ chúng tôi thâu đĩa với nhau. Đôi khi chúng tôi gọi đùa nhau là “Les Trois Mousquetaires” (Ba chàng ngự lâm quân pháo thủ).

Sau 1975, Ban Tam ca Tiếng Tơ Đồng do tôi và Mai Hương, Quỳnh Giao ra đời nhưngvì mỗi người định cư ở một nơi, lâu lâu mới họp lại hát rất bất tiện nên chỉ hoạt động được một thời gian.

TTT: T nghe nói trong quá khứ, chị có điạ vị xã hội là phu nhân của một đại tá Hải Quân chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang. Vào những năm trước 75, chị hoạt động ca hát thường xuyên, chuyện này có ảnh hưởng hạnh phúc gia đình chị không?

KT: Ngày đó tôi đi làm và ca hát, nhà tôi thì đi lính, xa nhà hoài, đời sống cả hai thiếu sự gần gụi. Sau này chúng tôi xa nhau thật, vì thiếu sự vun đắp tình cảm đưa đến sự tan vỡ. Tuy nhiên khi còn ở với nhau, tôi vẫn làm tròn trách nhiệm của tôi nghĩa là trong các buổi tiệc tùng như tiếp đón các quan chức trong nước cũng như ngoại quốc, tôi đều lo toan. Tỷ như trong vai trò tiếp đón ông Nguyễn Cao Kỳ, các hạm trưởng Hải Quân hay Chỉ Huy Trưởng Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ, mọi người đều giao lại cho tôi vì thời đó rất ít các phu nhân thạo ngoại ngữ, và tôi nói được cả tiếng Anh lẫn Pháp. Ngày ấy, tiếng Việt với tôi lại là ngôn ngữ thứ hai. Ngay từ nhỏ, tôi may mắn được các cụ cho đi học trường sơ Pháp, nói toàn tiếng Pháp. Bà sơ dạy tiếng Pháp lại gốc Ăng Lê nên tôi được học cả tiếng Anh, giọng Anh của tôi lai giọng Ăng Lê.

TTT: Vậy chị là người thấm đẫm văn hoá Tây Âu từ bé, trong lối suy nghĩ, hành xử và sinh hoạt trong đời sống gia đình chị có bị Âu hoá không? thoáng hơn, cởi mở hơn, thậm chí nổi loạn?

KT: Tuy được giáo dục trường lớp Tây Âu nhưng nếp sống của tôi vẫn trong vòng lễ giáo vì bố tôi là người trọng Nho học nên làm gì thì làm tôi cũng phải khép vào khôn khổ Việt Nam. Ước vọng của tôi vẫn là được tự do và phóng khoáng, nên một ngày nào đó nó bung ra. Khi qua đến Mỹ tôi hấp thụ được văn hoá và lối suy nghĩ của họ nên trong lối hành xử tôi thấy thoải mái và tự do hơn.

TTT: Sắp tới chị và các thân hữu có tổ chức một buổi nhạc thính phòng “Hát cho vui đời”. Sau một thời gian dài chị nghỉ hát, sao chị trở lại?, xin cho biết lý do và cảm tưởng của chị.

KT: Lý do rất dễ hiểu vì các cô em tôi muốn tôi trở lại hoạt động cho vui, nhân tiện có cơ hội cho chị em hát với nhau. Tôi bảo họ làm lần này, còn tương lai không biết bao giờ tôi có hứng được nữa. Có lẽ vì bây giờ tôi không chịu được áp lực, không muốn nghĩ ngợi, gò bó lại sợ bị nhức đầu. Tuy nhiên biết đâu, nếu còn cơ duyên, hay tôi còn hát được thì hát tiếp. Nếu cảm thấy hát không được nữa thì tôi dừng. Mình phải tự biết mình.

TTT: Cầu chúc cho tiếng hát vượt thời gian của chị còn hoài cho khán thính giả ái mộ được thưởng thức mãi.

Trịnh Thanh Thủy

October 13, 2016 quanvan *Quán nhạc, Trịnh Thanh Thủy

*chữ của Vũ Thùy Hạnh


Bài đọc thêm :

Danh ca Kim Tước ‘Hát Vui Cho Đời’

Danh ca Kim Tước hát trong tiếng đàn đệm của Phương Thảo. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Chiều Chủ Nhật, 23 Tháng Mười, ngưỡng mộ tiếng hát của nữ danh ca Kim Tước, đông đảo khán giả đến tham dự chương trình ca nhạc với chủ đề “Kim Tước Hát Vui Cho Đời” được tổ chức tại phòng sinh hoạt nhật báo Người Việt, Westminster.

Mặc dù hôm đó tại Little Saigon trời có vài cơn mưa Thu rải rác, nhưng buổi ca nhạc vẫn thành công.

Danh ca Kim Tước chia sẻ với nhật báo Người Việt, “Lâu rồi tôi không đi hát, vì sức khỏe và tôi cũng nghĩ rằng, tôi không hát được nữa nên thấy cũng hơi có buồn tình một chút. Nhưng nhờ các cô em khuyến khích tôi nên hoạt động văn nghệ lại cho đời còn một chút vui. Vì thế, tôi mới chọn chủ đề ‘Hát Cho Vui Đời.’”

MC Hồng Tước điều hợp chương trình. Cô cho biết, chỉ cần một thời gian ngắn tập luyện, thì giọng hát của Kim Tước đã trở lại phong độ như xưa. Sau thời gian dài trải qua những sự kiện trong cuộc đời, có thể nói, giọng hát của nữ danh ca còn tình cảm hơn trước nữa.

“Như quý vị biết, chị Kim Tước từ lâu không còn ca hát nữa, chị coi như là ở ẩn vì cảm thấy mình đã lớn tuổi. Đã nhiều lần các em trong nhà có khuyến khích chị nên ra ngoài ca hát, vui chơi, nhưng chị tự cho mình đã có tuổi, giọng hát đã lỗi thời, vì thế chị không muốn cất tiếng ca nữa,” MC Hồng Tước, em gái nữ danh ca, chia sẻ.

Cô nói tiếp, “Tuy nhiên, trong cộng đồng chúng ta hiện nay, một trong những phong trào giải trí lành mạnh là ca hát, nhất là cho những người lớn tuổi đã về hưu. Hát là để khuây khỏa, để đỡ buồn tuổi già, để trí nhớ không có bị mai một, để ôn lại những kỷ niệm đẹp xưa cũ, và cũng có cái cớ để chúng ta gặp gỡ lại bạn bè. Chỉ khi chúng ta về hưu thì mới có được thì giờ để làm những điều mình thích mà mình có thể làm được mỗi ngày và rất dễ dàng, đó là ca hát,” cô chia sẻ thêm.

Mở đầu chương trình là bài hợp ca “Khúc Ca Mùa Hè” của nhạc sĩ Canh Thân, với những tiếng hát Kim Tước, Thanh Tước, Hồng Tước, Hà Tước và Ngân Hà đồng ca. Họ hát rất đầy đặn và rất có hồn, đã khơi dậy những kỷ niệm trong nền âm nhạc Việt Nam hơn 45 năm về trước. Thời đó, “Khúc Ca Mùa Hè” được truyền tải từ những đài phát thanh, những buổi trình diễn đại nhạc hội, và những tụ điểm ca nhạc tại Sài Gòn với ban tam ca một thời vang bóng, Mộc Kim Châu, gồm Mộc Lan, Kim Tước và Châu Hà.

Gia đình “The Tước Sisters” trong bản “Khúc Ca Mùa Hè.” (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Bài “Thoi Tơ” của nhạc sĩ Đức Quỳnh với tiếng hát rất trẻ, Nam Trân. Bài nhạc có tiết tấu vui của điệu “valse,” lời lẽ mộc mạc, dễ hát, nhưng rất khó để một ca sĩ trẻ hát được đầy đặn theo ý nghĩa của bài này.

“Em lo gì trời gió, em lo gì trời mưa, em tiếc gì mùa Hè, em tiếc gì mùa Thu. Ta cứ yêu đời đi, như lúc ta còn thơ, rồi để anh làm thơ, và để em dệt tơ…”

Và Nam Trân đã hát rất khoan thai, điêu luyện, làm khán giả cảm thấy nhẹ nhàng theo.

“Mùa Thu Chết” là tên một bài hát của Phạm Duy sáng tác năm 1965, ca sĩ Vũ Anh hát tiếp nối chương trình. Bài này, phần lời được dịch từ bài thơ tiếng Pháp, L’Adieu của Guillaume Apollinaire, rất nổi tiếng trong thập niên 1970 tại Sài Gòn.

Lời bài hát được dịch từ những câu thơ “J’ai cueilli ce brin de bruyère/L’automne est mort souviens-t’en…” Thi sĩ Bùi Giáng dịch: “Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo/Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi…”

“Tôi với chị Kim Tước thân biết nhau khoảng hơn 40 năm. Thâm tình với nhau từ ngày chúng tôi hát chung bài ‘Bầy Chim Bỏ Xứ’ của nhạc sĩ Phạm Duy. Lúc ấy nhạc sĩ Phạm Duy đã giao cho tôi và chị Kim Tước cùng hát thay nhau những đoạn solo. Rồi cũng kể từ đó, chúng tôi có dịp tập dượt với nhau nhiều nên rất ‘hợp gu’ với nhau qua những bài hợp ca trong thời nền âm nhạc tại Sài gòn còn hưng thịnh,” ca sĩ Vũ Anh chia sẻ.

Bài “Kỷ Niệm” của nhạc sĩ Phạm Duy, do Phạm Hà hát, cũng là một tiếng hát còn rất trẻ, nhưng anh hát rất điêu luyện và giọng hát này cũng thích hợp với những dòng nhạc vàng trong thời xa xưa. Được biết, Kim Tước là chị dâu họ của Phạm Hà và anh cũng từng đi hát chung với ban Tiếng Tơ Đồng, gồm Kim Tước, Mai Hương và Quỳnh Giao tại Hoa Kỳ.

Tiếng hát của Hà Tước với bài “Không Còn Mùa Thu” của nhạc sĩ Anh Việt. Qua điệu boston trầm buồn, như thương tiếc một thời của mùa Thu tuổi thơ. “Không còn mùa Thu, trăng rơi bên thềm/Không còn lời ru, mơ trên môi mềm/Em thơ như mùa Xuân đầu nối dài đêm thâu…”

Ca sĩ Hoàng Nam hát bài “Riêng Một Góc Trời” của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, một bài nhạc rất nổi tiếng và cũng rất khó hát để được trọn vẹn. Và Hoàng Nam chẳng những hát hay mà lối ca diễn cũng rất đạt.

Nam Trân trong ca khúc “Thoi Tơ” cùng với tiếng đàn của Phương Thảo. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Theo diễn giả Nguyễn Đinh Cường, năm 1952, đài phát thanh Hà Nội có tổ chức một cuộc thi hát, và bên giọng nữ thì Kim Tước đã đoạt giải thủ khoa.

“Tôi còn nhớ trong một chương trình ca nhạc trực tiếp ở trên đài phát thanh Hà Nội năm 1952, hôm đó nhạc sĩ Hoàng Giác giới thiệu một giọng ca mới vừa đạt thủ khoa của đài, đó là tiếng hát Kim Tước. Chị hát lại bài nhạc đã trúng thưởng, đó là bài ‘Ngọc Lan.’ Và tôi hân hạnh là một thính giả đã được nghe chị Kim Tước hát lần đầu tiên trên đài phát thanh Hà Nội. Rồi đến thời gian di cư vào Nam, tôi lại được nghe tiếng hát của chị tiếp tục hát bài này tại Sài Gòn. Và số lượng khán giả ái mộ càng ngày càng gia tăng, bởi vì danh ca Kim Tước có tiếng hát tuyệt vời của nền âm nhạc Việt Nam,” ông Cường chia sẻ.

Sau đó, ông Cường giới thiệu danh ca Kim Tước.

Trước mọi người, Kim Tước chia sẻ, “Hôm nay, tôi được trình bày những bản nhạc xưa cũ và sẽ đưa quý vị về những âm thanh cổ điển. Với tuổi đời, tôi sợ không làm tròn bổn phận của một người ca sĩ mà cần có giọng hát thanh cao nữa, nhưng tôi sẽ cố gắng. Nhạc phẩm đầu tiên là ‘Gió Thoảng Hương Duyên’ của nhạc sĩ Vũ Thanh.”

Tiếng đàn guitar cổ điển của Phương Thảo đã đưa tiếng hát của Kim Tước đi vào những dòng nhạc vàng xưa cũ. Tuy tuổi đời đã cao, nhưng giọng hát vẫn còn hưng phấn như ngày nào. Sau đó, bà hát bài “Dạ Khúc” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Quỳ, và bà đã chia sẻ với khán giả là, cách đây cả năm sáu mươi năm trước, hoặc là hơn nữa, tác giả của bài này là một nhạc sĩ đã kỳ cựu, tính theo bây giờ cũng đã là cả trăm tuổi rồi. Tuy họ đã khuất xa ở một phương trời nào đó, nhưng những ca từ và dòng nhạc vẫn còn mãi mãi theo thời gian không bao giờ mờ xóa được.

Lời bài “Dạ Khúc” và tiếng hát của Kim Tước đưa mọi người về một thoáng hương vị của ban Tiếng Tơ Đồng ngày xưa. “Đêm về trong bước phong sương, lùa gió phũ phàng/Ai cười kiếp sống mong manh, lệ thắm cung đàn/Ai cất chén mong say sưa quên hận sầu/Mơ bóng dáng xưa trong tiếng tơ ngập ngừng, ai oán…”

Cũng thế, qua những bài “Serenata” và “Ave Maria,” Kim Tước thật sự đã đáp lại sự ngưỡng mộ của khán giả cho đến giờ phút cuối của chủ đề “Hát Vui Cho Đời,” với sự phối hợp của Tô Minh Hùng (keyboard), Phương Thảo (guitar) và Quang Tuyến (âm thanh).

Nguồn : Người Việt

October 30, 2016



Trở lại Trang Chính