Đà Lạt ngày tháng cũ “Truyện chúng mình”

L.S Ngô Tằng Giao

Kim Anh sưu tầm

Đà Lạt luôn ở trong trái tim nhà thơ Nhất Tuấn (Phạm Hậu). Trước 1975 nhà thơ là quân nhân, gia nhập trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, năm 1955, Khóa XII. Nhà thơ được biết đến nhiều qua những tập thơ “Truyện chúng mình” và tập truyện “Đời lính”. Thơ Nhất Tuấn thuở xa xưa đầy những hình ảnh thân thương về thành phố Đà Lạt.

Nhà thơ Nhất Tuấn

Thoạt tiên tình yêu thấp thoáng trong bài thơ “Truyện chúng mình”, chỉ gợi lên nỗi nhớ mong của người ở Đà Lạt bị xa cách với người ở Sài Gòn:

“Còn nhớ những thư người trước gửi

Sài gòn – Đà lạt mới năm nào

Từng chiều thứ bảy anh mong đợi

Màu chữ xanh, yêu đến ngọt ngào

***

Hồn có nguyên trinh màu trắng cũ

Môi hồng vẫn thắm thuở ban đầu

Không dưng lòng rộn niềm ao-ước

Nhưng biết ai còn nhớ đến nhau.”

Trong đời lính, phải rời xa Đà Lạt, từ nơi tiền đồn biên giới nhà thơ gửi lòng nhung nhớ về thành phố này nhân mùa Giáng Sinh khi viết bài “Niềm tin” cũng đầy mong nhớ:

“Lại một Noël nữa

Mấy mùa Giáng Sinh rồi

Anh ở đồn biên giới

Thương về một khung trời.

***

Chắc Đà lạt vui lắm

Mimosa nở vàng

Anh đào khoe sắc thắm

Hương ngào ngạt không gian.”

* Niềm Tin (thơ Nhất Tuấn, nhạc Anh Bằng) - Khánh Ly

Sau khi tình yêu nơi giáo đường xuất hiện, trong hồi tưởng, nhà thơ chỉ nguyện cầu, ước mong “thấy” được người yêu nơi bài thơ “Cầu nguyện” (chứ không phải mong “lấy” được người yêu như bản nhạc đã đổi lời):

“Con quỳ lạy chúa trên trời

Để cho con thấy được người con yêu

Đời con đau khổ đã nhiều

Kể từ thơ dại đủ điều đắng cay

Bây giờ con đã gặp nàng

Không giàu, không đẹp, không màng lợi danh.

Chúng con hai mái đầu xanh

Chấp tay khấn nguyện trung thành với nhau.

Thề rằng sóng gió biển dâu,

Đã yêu… trước cũng như sau… giữ lời

***

Người ta lại bỏ con rồi,

Con quỳ lạy Chúa trên trời thương con.”

* Con Quì Lậy Chúa Trên Trời ( thơ Nhất Tuấn, nhạc Phạm Duy) - Thùy Dương & Tuấn Ngọc

Mùa Giáng Sinh thường là thời điểm kỳ diệu nhất trong suốt cả một năm với tiếng chuông nhà thờ ngân nga trong đêm vắng, với ánh nến lung linh huyền ảo và giọng thánh ca trầm bổng gợi lên những cảm xúc thanh thoát, êm đềm và thánh thiện trong lòng người. Bên giáo đường hoa mimosa Đà Lạt khoe sắc vàng tươi thắm, nhưng trong lòng nhà thơ lại chỉ nổi lên kỷ niệm buồn bã với bài “Mimosa thôi nở”:

“Noël xưa anh nhớ

Khi hãy còn yêu nhau

Nhà thờ nơi cuối phố

Thấp thoáng sau ngàn dâu

Anh chờ em đi lễ

Chung dâng lời nguyện cầu

Mimosa... bừng nở

Đẹp như tình ban đầu

Đà lạt mờ trăng lạnh

Đường về ta bước mau.

***

Rồi anh hỏi khẽ em

Đã xin gì với Chúa

Trong đêm lễ Noël

Em lắc đầu chả nhớ

Nhưng hồng lên đôi má

Nắm tay anh đợi chờ

Trông em sao xinh quá

Và ngoan như nàng thơ.

Mới bốn mùa thu qua

Mimosa vẫn nở

Sao mối tình đôi ta

Ai làm cho dang dở

Đêm nay Noël đây

Chuông nhà thờ khắc khoải

Gió đồi lang thang bay

Mưa buồn giăng ngõ tối.

***

Anh quỳ bên tượng Chúa

Cúi đầu chắp hai tay

Lạy Chúa con chờ đợi

Người ngày xưa về đây

Nhưng em không về nữa

Đường khuya mưa bay bay

Mimosa thôi nở

Trong hồn anh đêm nay.”

* Mimosa Thôi Nở (thơ Nhất Tuấn, nhạc Đan Thọ) - Duy Quang

Trong bài thơ “Truyện cây hoa Mimosa” (1964), lại cũng vẫn thoáng lộ ra vẻ giận hờn, trách móc vì tình phụ:

“Một đi vĩnh biệt cao nguyên

Mimosa trả… cho miền núi non

Làm gì có chuyện sắt son

Thì thôi đừng dại mỏi mòn mắt trông.”

Trước từng cùng “người xưa dịu hiền” kề vai nhau tình tự ngồi bên hồ Than Thở. Nay sao lại đã xa nhau, chỉ còn lại lời thở than tiếc nhớ dĩ vãng kỷ niệm trong “Bài hát đồi Sim”:

“Đà lạt đầy sương khói

Một mình anh lặng yên

Nghe hồn mình nức nở

Nghe buồn len trong tim

Nếu mình đừng gặp nhau

Trên núi đồi Đà lạt

Vì tình yêu ban đầu

Đã tan theo sóng nhạc.

Người xưa… người xưa đâu?

Để… lòng anh tan nát

Đời bãi bể nương dâu

Cũng buồn như tiếng hát.”

Đà Lạt rất thích hợp để làm bối cảnh cho những truyện tình. Cũng vẫn hồ Than Thở Đà Lạt là nơi đôi lứa từng vui chơi với hoa “bất tử” là sứ giả của tình yêu. Nhưng nay sao chỉ còn là một kỷ niệm “tàn nhẫn” trong bài “Cánh Immortel cuối cùng” (1964):

“Hôm xưa đi chơi hồ Than Thở

Em ngắt bên đường một đóa hoa

Rồi chạy đến anh cười hớn hở

Đây hoa bất tử như tình ta.

Từ dạo sân nhà em đỏ pháo

Em cùng người ấy sống yên bình

Đêm đêm úp mặt vào tay bảo

Nào có ra chi… truyện chúng mình.

Anh quên màu đỏ trong hoa đó

Màu đỏ là màu của biệt-ly

Và của bao nhiêu sầu hận tủi

Giờ đây còn biết nói năng chi.

Cánh hoa bất tử rơi lần chót

Tàn nhẫn như người rũ áo đi.”

Một ngày nào đó khi hồi tưởng về thành phố cao nguyên với tình yêu đẹp đẽ tràn đầy mộng ước lúc mình còn là sinh viên võ bị, Nhất Tuấn viết bài “Nhớ về Đà lạt” (1964):

“Nhớ tám năm về trước

Khi còn là sinh viên

Học trong trường Võ bị

Nơi núi rừng cao nguyên

***

Dạo ấy em mười tám

Xinh đẹp hơn tiên nga

Tóc mây bồng vương trán

Môi cười tươi như hoa”

Đôi lứa đắm mình trong phong cảnh hữu tình của Đà Lạt:

“Còn nhớ không ngày xưa

Đà lạt buồn trăng mờ

Gió vàng trên nước biếc

Chim chiều bay bơ vơ”

Thời gian trôi qua. Cảnh vẫn còn đó. Người xưa đã cách xa. Để rồi lại cũng vẫn đầy hình ảnh dang dở chia ly vào giai đoạn cuối của khúc nhạc tình:

“Rừng ái ân vẫn đó

Hồ Than thở còn đây

Thông im buồn đợi gió

Mây đồi xa còn bay

***

Cũng vẫn một khung trời

Còn nguyên hình ảnh cũ

Em bây giờ xa rồi

Tìm đâu người viễn xứ

***

Tình nào không dang dở

Màu nào mà không phai

Cho nên anh không nỡ

Làm thơ để trách ai

***

Riêng chiều nay nhớ lại

Truyện chúng mình ngày xưa

Nhìn khung trời Đà lạt

Mà tưởng mình đang mơ.”

Và còn nhiều cuộc tình dang dở với bóng dáng Đà Lạt khác nữa trong thơ Nhất Tuấn. Khi mưa Đà Lạt giăng mắc trên thành phố thời nhà thơ ngậm ngùi nhớ lại hình ảnh cũ, đầy ngang trái và nát tan, nhà thơ viết bài “Mưa trong kỷ niệm”. Một ngôi giáo đường nhỏ bé của Đà Lạt cũng gợi nhớ một mùa Giáng Sinh với hoa anh đào khoe sắc thắm, nhà thơ viết bài “Nhà thờ đường Cô Giang”. Một tiếng hát, một bài hát ngày xưa cũng lại nhắc nhở tới kỷ niệm chia ly cũ, nhà thơ viết bài “Đêm cuối cùng Đà lạt”.

Người yêu thơ có lẽ phải nhận ra rằng Nhất Tuấn, với những vần thơ lai láng trữ tình trong “Truyện chúng mình” không phải chỉ là truyện riêng tư “thì thầm bên gối” giữa hai người nữa mà đã hóa thành “truyện chúng mình” của bao nhiêu là đôi tình nhân thanh niên nam nữ khác. Nhà thơ đã viết hộ xuống những trang nhật ký về tình yêu của bao người trẻ tuổi. Khi thì đằm thắm thiết tha. Nhiều lúc lại dang dở não sầu, phải cần đến thời gian như là một loại linh dược để dần dần hàn gắn các vết thương lòng trong quá khứ. Có thể coi đây là tâm sự chung của một thế hệ thanh niên thời đó, đồng một lứa tuổi với tác giả.

Trong cuộc sống tha hương, khi mùa Xuân tới biết bao là hình ảnh Đà Lạt lại chập chờn hiện về trong ký ức. Tình yêu đã mở rộng ngoài tầm “đôi lứa”. Tuy vẫn buồn nhưng hình ảnh ngôi trường xưa yêu quý hiển hiện như một vì sao sáng trong bài “Lại một xuân buồn” (1985):

“Nhớ Bích Câu Đà lạt thoáng mưa bay

Hồ Than Thở cùng lòng ai hòa nhịp

Rừng Ái Ân với ngàn thông xanh biếc

Thác Gougah, cây gọi gió than van

Đồi 15 đâu đó cụm mai vàng

Giáng Sinh tới Anh đào khoe sắc thắm

Mimosa sương long lanh đọng nắng

Chiều Lâm Viên, bản Thượng khói dâng cao

Những kỷ niệm xưa thân ái biết bao…

Ghi lại thuở bên nhau nơi Trường Mẹ!”

Trong cuộc sống tại ngước ngoài, khi cảm tác “Truyện chúng mình hải ngoại” Nhất Tuấn viết: “Thôi trang đời đã khép”:

“Và những chiều Đà lạt

Một mình trên đồi thông

Mưa nhạt nhoà trong mắt

Gửi sầu... vào mênh mông.”

Bài “Ảo ảnh” cũng vẫn khắc ghi lại kỷ niệm uá sầu khôn nguôi:

“Xin giữ mãi kỷ niệm buồn Đà lạt

Giữa đồi thông rừng cỏ non xanh ngắt

Nhớ điên cuồng trong một phút bâng khuâng.”

Phải chăng có lẽ để tưởng vọng về thành phố Đà Lạt mưa giăng, sương phủ với núi đồi thông xanh đầy ắp những kỷ niệm ngày xa xưa một phần đời của mình còn gửi lại nơi chốn ấy vì thế mà trong chuỗi ngày ly hương và khi mái tóc chớm điểm bạc nhà thơ đã chọn về định cư ở một thành phố cũng giăng mưa với ngàn thông xanh hoài ngàn năm giữa một miền đồi núi chập chùng ở vùng trời tây bắc Hoa Kỳ, đó là Seattle?

Trích trong tác phẩm “Đà Lạt ngày tháng cũ”



Trở lại Trang Chính