Nguyễn Đức Sơn - Lão quái dị trên đồi Phương Bối

Ban Mai

Hoàng Long sưu tầm

Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi

Cuối chiều tà chỉ gặp cỏ hoang sơ

Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi

Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô

Chân rục rã tôi đi luồn ra núi

Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô.

(Một mình đi luồn vô luồn ra trong núi chơi)

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn được người đời phong hiệu là ba kỳ nhân trong làng văn nghệ Miền Nam trước năm 1975 cùng với Bùi Giáng và Phạm Công Thiện. Cuộc đời của ông dị thường giống như những nhân vật quái dị trong kiếm hiệp Kim Dung. Họ quái dị không phải chỉ ở ngoại hình, động tác mà chủ yếu là ở cách sống và hành xử không giống ai, đi ngược lại lẽ thường của cuộc sống.

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn

Nếu như trong Tiếu ngạo giang hồ nhân vật Tiêu tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh, thân là chưởng môn phái Hành Sơn, nhưng luôn xuất hiện với bộ dạng một người ăn mày gầy gò đau khổ, chơi một cây dao cầm cũ kỹ và miệng luôn hát bài Tiêu tương dạ vũ, ông được xưng tụng là “cầm trung tàng kiếm, kiếm phát cầm âm” (Trong đàn giấu kiếm, kiếm phát tiếng đàn), võ công lợi hại nơi chốn giang hồ. Nói như nhà văn Vũ Đức Sao Biển “Con người quái dị ấy thoạt ẩn thoạt hiện, mang phong cách của một đạo gia Lão Trang, ung dung tiêu sái giữa cuộc đời. Duy có tiếng đàn và điệu ca Tiêu Tương dạ vũ của tiên sinh luôn luôn trĩu nặng nỗi u buồn, chưa thoát khỏi vòng hệ luỵ của cuộc sống, như dòng nước có đi mà không bao giờ có lại. Mạc Đại là hình ảnh tiêu biểu của một thứ trích tiên bị đoạ”. (1)

Cuộc đời nhà văn Nguyễn Đức Sơn cũng kỳ dị tương tự như vậy. Ông sinh năm 1937 tại làng Dư Khánh, tỉnh Ninh Thuận. Từng theo học Đại học Văn khoa Sài Gòn nhưng nửa chừng bỏ học, làm thơ sớm với bút hiệu Sao Trên Rừng, còn trẻ nhưng chớm hoài nghi và thắc mắc những câu hỏi siêu hình. Trước năm 1975 ông mưu sinh bằng nghề dạy kèm ngoại ngữ, ở trong chùa Tây Tạng, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Kết hôn với cô Nguyễn Thị Phượng, cháu của sư trụ trì chùa . Phượng là cháu mồ côi đẹp như Đầm Lai, nên bạn bè thường gọi là Phượng lai.

Sau năm 1975, ông thất nghiệp, không thể dạy kèm tiếng Anh vì không ai học, thời gian ấy tiếng Nga đang là mốt thời thượng, ngự trị tất cả các trường trung học, đại học, tôi nhớ hầu như các giáo sư dạy tiếng Anh và tiếng Pháp chính qui đều bị thất sủng, giảm biên chế hay chuyển sang các công việc khác, như làm văn phòng, thư viện thì thầy giáo dạy kèm tiếng Anh như ông thất nghiệp là việc đương nhiên. Sống lây lất mấy năm tại Bình Dương, đến năm 1979 ông dẫn cả nhà lên ngọn núi Phương Bối, Lâm Đồng, sinh sống. Thời ấy, sống trên dãy núi Đại Lào hẳn nhiên mưu sinh bằng nghề làm nương làm rẫy. Hãy tưởng tượng một người đàn ông ốm yếu với chiếc xe đạp cọc cạch, hàng ngày thồ đống củi gần 10 cây số đến chợ làng bán để nuôi đàn con nheo nhóc 9 đứa và một người vợ ốm yếu thì cuộc sống của ông cùng quẫn và nhếch nhác đến mức nào.

Nhiều người, lên án ông đã để con mình thất học. Theo tôi, có lẽ vì một lý do nào đó nên một thầy giáo, một nhà thơ như ông lại chủ động không cho con mình đi học, không cho con mình bén máng đến chốn bụi trần, sống xa lánh tách biệt với xã hội, đi ngược lẽ thường của cuộc sống là một lý do chẳng đặng đừng, nhưng cái thế bắt buộc phải vậy.

Từ đó, gia đình ông ăn chay trường, con ông hầu như đều tu tại gia, trong các am thất trên núi, giai đoạn đói khát một người con trai của ông hái trúng nấm độc, ăn và chết, gây cho ông một cú sốc.

Dân trong vùng Đại Lào đồn thổi ông là người quái dị, ham đọc sách nhưng lại đối xử hà khắc, gia trưởng với vợ con, đêm về nghe tiếng ông hò hét vang xa khắp rừng thông. Tính ông ngông cuồng, nói chuyện chửi bới, văng tục một cách tự nhiên trước mọi người, không kể bất cứ ai, còn thích làm trò khỉ, banh mồm, nhăn răng, trợn mắt.

Ông sống riêng một mình trong một tịnh thất nhỏ làm bằng gỗ, chưa có bất cứ người nào bước chân vào, vì ông đái chung quanh góc nhà nói là để diệt mối.

Những chi tiết này, làm tôi nhớ đến những dị nhân sống trong các tịnh cốc kiếm hiệp Kim Dung. Thực hư cuộc đời của ông ra sao tôi không biết, nhưng với riêng tôi, người có tâm hồn nâng niu từng bước chân con đi, dõi theo từng bước con lật tập phải là người có tình cảm sâu lắng, tuy bên ngoài bao giờ ông cũng hành xử trái ngược với lòng mình, tâm hồn ông là một trời mâu thuẫn, hãy xem ông nhìn con tập lật:

Nắm tay lật úp đi con

Co thân tròn trịa như hòn đá lăn

Muốn cho đời sống không cằn

Tập cho quen mất thăng bằng từ đây

(Nhìn con tập lật)

Xem cha đốt cỏ ngoài rừng

Nâng niu mẹ ẵm theo mừng không con

Có vài chiếc lá còn non

Gió xua lửa khói nổ giòn trên không

Nắng tà trãi xuống mênh mông

Bước theo chân mẹ cha bồng hư vô

(Đốt cỏ ngoài rừng)

Ngày xưa, trong bài Mai kia ông từng viết

Mai kia tan biến hận thù

Giữa đêm sao chiếu mịt mù phương đông

Cha về ôm cả biển sông

Duỗi chân duỗi cẳng nằm không một đời

Cho con cha hứa một lời

Đuổi mây thiên cổ rong chơi tối ngày

Thu nào tóc bạc òa bay

Có con chỉ trỏ mới hay tuổi già

Cúi hôn trời đất đậm đà

Cha tan theo bóng trăng tà vạn niên

Thời thế đổi thay, ông có biết rằng ngày sau, con ông sẽ nghĩ về ông như thế nào khi cho con hình hài và cuộc sống như vậy.

Trong Mùa hạ, về Phương Bối, Hàm Anh viết:

“Phương Bối Am là một vùng đồi rộng ở Bảo Lộc từ Sài Gòn đi quốc lộ 20 lên Đà Lạt, qua cầu Đại Lào, bên tay trái, đi sâu vào xã Lộc Châu tới con dốc dẫn lên một vùng đồi rộng là Phương Bối Am. Thầy Nhất Hạnh đã xây một thiền thất giữa đồi thông mênh mông, thơ mộng ấy. Sau năm 1975, ngôi nhà bị sập, cả vùng đồi tan hoang, chỉ còn lại cái bể cạn lớn, khô nước, trơ bốn vách tường xi măng). Sơn đã đưa gia đình lên đó, che cái mái tranh, vách ván, cả nhà chui vào ở. Sơn, Phượng vợ Sơn cùng chín đứa con, bảy trai hai gái: Thạch, Vân, Thảo, Thủy, Không, Lão, Yên, Phương Bối, Tiểu Khê...” Những đứa trẻ lớn lên cũng hoang dại như núi rừng, không cách chi sinh sống được, nên tất cả đều lần lượt được gửi vào nương náu nơi cửa chùa. Ngoại trừ Thạch đã có cuộc sống riêng và cắt đứt liên hệ với gia đình,

Thảo nằm kia từ lâu lắm, nấm mồ chơ vơ trên ngọn đồi yên ả mây bay. Vân từ chối cơ hội sang Pháp tu học, tạm quay về để gom tất cả bốn người em trai, nuôi ăn học lại dưới một mái nhà tại chân Phương Bối, trong đó Thủy đang theo học cao cấp Phật học tại Sài Gòn. Yên, Không, Lão rời chùa về nhà theo thế học”. (2)

Và Phượng, người đàn bà đẹp một thời, nay tiều tụy xanh xao vẫn một lòng lặng lẽ bên ông như một cái bóng, chấp nhận cùng ông đi suốt cuộc đời cơ cực.

một ngày đau khổ chín trong tôi

tôi đến bên cây lẳng lặng ngồi

cây thả trái sầu trên nước lắng

mặt hồ tan vỡ ánh sao trôi

thôi nhé ngàn năm em đi qua

ồn tôi cô tịch bóng trăng tà

trời sinh ra để chiều hôm đó

tôi thấy mây rừng bay rất xa

(Tôi Thấy Mây Rừng)

Một đêm trăng mờ ảo

anh tìm về thăm em

phố buồn như hoang đảo

gió ngừng ru bên thềm

ánh đèn sao le lói

căn phòng sao đìu hiu

anh lặng người thầm hỏi

kiếp người sao tiêu điều

anh đi vòng sau nhà

một mình như bóng ma

giật mình anh nghe thấy

có tiếng gì bay xa

rồi đêm trăng mờ ảo

anh lại về thăm em

như lá vàng lảo đảo

anh lui về trong đêm

(Đêm Thu)

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn là bậc tiền bối, tôi là kẻ hậu sinh không cùng thế hệ, lại chưa đọc hết những sáng tác của ông, nên không dám bình luận, chỉ biết rằng ngày xưa ông được làng văn sắp xếp là một trong tứ trụ thi ca của miền Nam cùng với Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên chắc chắn phải có được sự cảm phục của nhiều người trong văn giới, vì ngày ấy nếu không có thực tài thì không ai công nhận.

Nhà văn Võ Phiến, đã có nhận xét độc đáo về Nguyễn Đức Sơn:

"Hầu hết những ai bắt đầu xun xoe vào làng văn đều muốn tỏ ra khác người, nghĩa là ngông nghênh. Để có thể tha thứ những bậy bạ hư hỏng ở một kẻ nào, ta tắc lưỡi kêu: hắn trót có tí "máu văn nghệ" trong người. Trong đám văn nghệ với nhau thì nhố nhăng nhất phải thú thật là những chàng thi sĩ. Một nhà nho như ông Tản Đà mà để xứng danh thi sĩ ông cũng làm trò con nít: gửi thư lên chị Hằng, gánh thơ đi bán chợ trời v.v..Còn Chế Lan Viên thì thấy trăng sáng vội kêu: "Ta cởi truồng ra, ta cởi truồng ra " Nguyễn Đức Sơn không cần phải làm như thế. Hãy xem cốt cách của ông: điềm nhiên giản dị hơn biết bao:

đầu tiên tôi thở cái phào

bao nhiêu phiền não như trào ra theo

nín hơi tôi thở cái phèo

bao nhiêu mộng ảo bay vèo hư không...

(Một mình nằm thở đủ kiểu trên bờ biển )

Cứ thế ông thở "đủ kiểu. Rồi qua một bài thơ khác ông lại "khoái trí nằm thở nữa". Một đằng cố gắng làm ra lạ đời nên phải cởi truồng, phải chọc trời ghẹo trăng cho to chuyện; một đằng vốn có bản lĩnh tự nhiên, nên chỉ nằm mà thở thong thả cũng đủ độc đáo chán. Trong thơ, ta đã mấy ai nghe những tiếng thở cái phào cái phèo ngang tàng như vậy? (Nhất là đọc cho đến hết bài "thở đủ kiểu" ta giật mình thấy không phải đó là cái ngông vô cớ, ta không ngờ những hơi thở ấy lại đưa ta đi xa đến thế.) Khi Chế lan Viên muốn cho khác thường, ông đòi: "Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh", còn Nguyễn Đức Sơn thì chẳng xin một tinh cầu nào, cứ việc nằm ngay trên bờ biển mà vọc c... Khi Chế Lan Viên muốn tỏ ra ngông, ông đòi cởi truồng để tắm trăng; còn Nguyễn đức Sơn thì lại lăn cù trên bờ biển, rồi ngủ quên trên bờ biển, nửa khuya bị mưa ướt, thức dậy tự hỏi mình: "đã đời chưa con?” (3)

Thời trẻ, ông kiêu hãnh, xác định thế đứng của mình bằng cách tự chủ trương tờ “Mặt Đất”, trên trang 1 số 1, tháng 11-1965 ông viết :” Đấu trường của bọn trẻ tự động và ý thức nhất. Chủ trương biên tập Nguyễn Đức Sơn, vô gia cư, vô nghề nghiệp, vô địa táng. Tòa soạn lưu động tất hữu, và trường kỳ. Hiện tại không có địa chỉ liên lạc”. (4)

Với những lời thơ cao ngạo:

Tao viết văn làm thơ

Cho tụi bây quăng viết

Mặc dù tao không đời nào thèm giết

Những cái thứ cà rơ

(Thì ra)

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn là tổng hợp của những nghịch lý, nơi ông không chỉ có những vần thơ ngông, với lối viết trịch thượng mà ông còn là một nhà thơ xuất thần với những vần thơ đẹp

(Tịch Mạc)

Một lần tình cờ xem phóng sự trên tivi về người trồng thông trên Đại Lào - Lộc Châu - Lâm Đồng, hình ảnh một ông già gầy gò nhanh nhẹn chống gậy đi trên đồi thông,

ngày ấy, tôi không biết đó là nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, vì người ta chỉ giới thiệu là người gìn giữ những đồi thông và tự mình trồng ngàn cây thông trên Đại Lào. Nghe nói, ông đã từng bị thương khi bảo vệ tới cùng một tổ chim trên cây rừng Phương Bối do đám người có hung khí tới phá phách.

(Tất Cả Đều Trật Lất)

Hơn ba năm trước, trong một lần tôi đi Đà Lạt tham dự triễn lãm phòng tranh của họa sĩ Đinh Cường, ngày ấy đến tham dự có Bửu Ý ở Huế, vợ chồng anh Nguyên Minh - chị Lan, anh Trương Văn Dân - Elêna ở Sài Gòn, anh chị Lữ Kiều - Thanh Hằng, trong căn nhà trên đỉnh dốc cheo leo giữa rừng chiều, lần đầu tiên tôi biết đến tên nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, khi các anh bàn đi thăm Sơn Núi ở Bảo Lộc, lúc đó tôi chỉ biết ông là một người bạn của các anh, một nhà thơ trước năm 1975 lập dị sống xa lánh mọi người, không muốn tiếp xúc xã hội, thoát tục như Lão Trang.

Những bài thơ ông viết mang mang chất thiền :

một đêm sao ở trên rừng

đua nhau rụng xuống chào mừng nhân gian

hồn tôi cây cối liên hoan

rưng rưng tôi thấy trăm ngàn ước mơ

tuổi vàng suối mộng trời thơ

lớn lên tôi chết trên bờ hư không.

(Trên bờ hư không)

Lão du sĩ trên núi Phương Bối ngày này vẫn sống trong mộng, canh giữ rừng thông, như ngày xưa trong một bức thư viết cho cha (5)

Sáng mênh mông

Ta đi thơ thẩn trong vườn hồng

Ô bông, ồ mộng, ồ không.

Bây giờ lão vẫn mộng, nhưng là mộng trên đồi thông với tình yêu màu xanh bất diệt.

Trên những con đường xinh tươi nhất

Tôi đi và hát một mình

Rừng cây xanh và rừng cây xanh

Trời trong xanh và mây trong xanh

Trên đồi cây xanh dưới đồi cây xanh

Tôi dừng lại để nghe chim hót

Và theo điệu riêng tôi lại hát

Cho rừng thêm xanh cho ngày thêm xanh

...

Tôi thấy đời như đang bé dại...

Mặc người đời đua nhau nơi chốn phồn hoa, thêu dệt nhiều giai thoại, xem ông như một “con quỷ làm thơ” (6), Nguyễn Đức Sơn, lão quái dị trên rừng Phương Bối, ngày ngày vẫn thong dong với trời thơ của riêng mình, một mình một cõi ta bà.

Ban Mai - Nguyễn Thị Thanh Thúy

Nguồn : VOA

(1) Vũ Đức Sao Biển, “ Kim Dung giữa đời tôi”

(2) Đinh Cường, “Nguyễn Đức Sơn - ngọn lửa tịch mịch” tr45, TC Quán văn số 24

(3) Tràng Thiên. “Nguyễn Đức Sơn “, tr 81-82, SĐD

(4) Trần Hoài Thư, “Có một thời... trích 1 đoạn về Nguyễn Đức Sơn”, tr 51, SĐD

(5) Đinh Cường, tr 44 SĐD

(6) Cách nói của nhà văn ĐPP

Bài đọc thêm

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn

Mặc Lâm

Một trong bốn tứ trụ thơ

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn sinh năm 1937 tại Dư Khánh, Ninh Thuận. Ông còn được biết qua bút hiệu Sao Trên Rừng. Ông làm thơ rất sớm và đã in ra nhiều tập thơ và truyện ngắn từ đấu những năm 60 cho tới năm 1973. Ông có bài viết đăng trên những tạp chí hay các tờ chuyên đề rất nổi tiếng của miền Nam như Thế Kỷ Hai Mươi, Khởi Hành, Bách Khoa, Sáng Tạo, Thời Tập, Thời Nay, Trình Bày, Đối Diện, Mai, Văn, Văn Nghệ…

Giới văn nghệ miền Nam lúc ấy xem ông là một trong bốn tài năng thi ca mà có người gọi là tứ trụ thơ gồm: Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn, Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy Yên. Bên cạnh đó ông còn nổi tiếng với tính lập dị và rất nhiều người cho rằng ông với Bùi Giáng và Phạm Công Thiện nhập lại thành những dị nhân trong văn học.

Thơ Nguyễn Đức Sơn hầu như trái lại với cá tính của ông một cách đáng ngạc nhiên. Nếu khi nói ông thường tỏ ra bất cần đời thì khi viết ông lại trân trọng, trau chuốt từ con chữ một, ngay cả con chữ có dáng vẻ không thanh bai, cao quý mà nhiều nhà thơ tránh né ông vẫn dùng chúng một cách thông minh, hóm hĩnh và không thiếu chất triết học trong ấy.

Là bạn với Phạm Công Thiện và Bùi Giáng, ba người chia sẻ với nhau những khác biệt nhưng cũng ôm ấp nhiều cái chung mà đôi lúc chính họ không nhận ra. Phạm Công Thiện lừng lững đi vào triết học nhìn hiện tượng tồn sinh như một bất chấp của con người trong lúc vẫy vùng để sống. Bùi Giáng đam mê cái bóng chính mình trên những vuông giấy lạnh lẽo dơ bẩn của bụi đường, của rác rưởi cuộc đời, trong khi đó Nguyễn Đức Sơn ngong ngóng nhìn đời, nhìn mình với những câu hỏi vừa ngây thơ vừa cao siêu không lời giải thích. Sơn bỏ chạy khắp bốn phương, giạt trôi như rơm khô trên từng con rạch cuộc đời mà hành trang chỉ là những thanh âm ngọng nghịu, không đủ để trở thành một tuyên ngôn của kẻ bỏ cuộc nhưng trong từng bài thơ của ông vẫn còn đó những dáng dấp của một thời hưng phấn:

“Chửi ông cố nội tôi, chửi cha tôi tôi không giận chứ nói tôi giống Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, nhất là Bùi Giáng (nha… nha…) tôi mừng lắm mà tôi tin rằng Bùi Giáng nếu mà còn sống sẽ không đụng gì với tôi cả mà sau ngày phỏng dai…sau ngày giải phóng thì chính Bùi Giáng đã phá cái luật đó (nha… nha…) chứ tôi coi Bùi Giáng là cái thằng này ba sạo quá (cười) ạo quá đi, sạo quá mà. Mà quần chúng xin lỗi chứ nó ngu quá đi nó tường như vậy là hay (nha… nha…) Thằng Phạm Công Thiện hồi đó hồi trước giải phóng đi qua Mỹ lái máy cày mà nổi tiếng (cười). Nói tắt tôi định viết nhiều chuyện nhưng chưa được phép nói ra đây chắc có lẽ không đến nỗi xuống lỗ rồi mới viết.”

Những lời lẽ giỡn hớt, đùa bỡn của nhà thơ như đọng lại một nỗi niềm mà nếu tinh ý người nghe có thể nhận ra trong đó là giễu cợt chính mình qua những khuôn mặt cố tri một thời cùng sống. Giễu cợt cả mình và cả thiên nhiên khi chạm phải sự dữ dội lạnh lùng của trời đất. Bài thơ “Một mình đi luồn vô luồn ra trong núi chơi” có lẽ đáng là một đặc trưng cho tính cách Nguyễn Đức Sơn:

Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi

Cuối chiều tà chỉ gặp cỏ hoang sơ

Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi

Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô

Chân rục rã tôi đi luồn ra núi

Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô

Nguyễn Đức Sơn không phải lúc nào cũng “luồn vô luồn ra” như một thiền sư, rất nhiều lúc ông lặng lẽ làm một công việc mà bất cứ một chàng trai nào cũng từng làm, mơ mộng và yếu đuối trước giai nhân:

Một đêm trăng mờ ảo

anh tìm về thăm em

phố buồn như hoang đảo

gió ngừng ru bên thềm

ánh đèn sao le lói

căn phòng sao đìu hiu

anh lặng người thầm hỏi

kiếp người sao tiêu điều

Anh đi vòng sau nhà

một mình như bóng ma

giật mình anh nghe thấy

có tiếng gì bay xa

Rồi đêm trăng mờ ảo

anh lại về thăm em

như lá vàng lảo đảo

anh lui về trong đêm

Nhà thơ, người luôn thắc mắc với trời đất, với sự quanh hiu lẫn mang mang hư vô của cõi nhân gian. Hãy nghe Nguyễn Đức Sơn diễn tả cái xúc cảm mang mang ấy:

Mang mang trời đất tôi đi

Rừng im suối lạnh thiếu gì tịch liêu

Tôi về lắng cả buổi chiều

Nghe chim ăn trái rụng đều như kinh

Còn một mình hỏi một mình

Có chăng hồn với dáng hình là hai

Từng trưa nằm nghĩ đất dài

Phiêu phiêu nhẹ cái hình hài bay lên

Mù sương âm vọng tiếng huyền

Có con dơi lạ bay trên cõi đời

Sau xưa mắt đã ngợp rồi

Tôi nghe tôi chết giữa trời thinh không

Chủ đề quê hương

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn (trái) và Tâm Nhiên. Courtesy photo. Photo: RFA

Nếu nhắc tới thi sĩ từ thập niên 40 trở về sau mà không nhắc tới chủ đề quê hương của họ thì thật có lỗi. Nguyễn Đức Sơn cũng không ngoại lệ. Khi nói tới quê hương hình như bất cứ thi sĩ nào dù ngông nghênh cách mấy cũng thấy lòng lắng xuống nhường chỗ cho những dịu dàng, trân quý nhất dành cho nó. Nguyễn Đức Sơn hỏi han, vỗ về và nhắc lại kỷ niệm như một cậu bé về làng hơn là một gã thi sĩ điên khùng nói về quê cũ:

Tháng bảy dì về đơm nhãn

nhớ mang ra ít giạ chiêm

ruộng xưa cò bay thẳng cánh

gặt hái vừa độ trăng liềm

mười mấy năm rồi dì nhỉ

lạc loài xa mãi cố hương

giờ đây ngồi mà suy nghĩ

lòng dạ ai người không thương

quê mình ai còn ai mất

đi rồi gươm súng mùa thu

khóc mãi từng đêm lưu lạc

nói ra thêm oán thêm thù

ngõ về làm sao ngài ngại

xe cộ có dễ dàng không

kháng chiến người đi chưa lại

lúa khô héo cả ruộng đồng

ông ngoại chắc già ghê lắm

mấy người dì nữa nhưng thôi

đất cằn quê hương nứt rạn

kể thêm đau lòng dì ơi

dù sao cũng là xứ sở

đói nghèo đừng lạt tình thương

mười năm không cúng không giỗ

dì về ấm lại khói hương

tháng bảy dì về đơm nhãn

nhớ mang ra ít giạ chiêm

ở đây làm gì có bán

thấy người ta ăn bắt thèm.

Đôi lúc Nguyễn Đức Sơn có nét tương đồng với Nguyễn Bính, hết tâm sự với người dì tới nhỏ nhẹ hỏi han tới chị. Trong từng khuôn chữ ấy người đọc gợn lên mối cảm hoài mà nhiểu chục năm sau không còn thấy nữa.

Giữa mùa nắng vàng hiu hắt

Về đây đôi mắt dịu hiền

Về đây cả bàn tay đẹp

Đi tìm thăm xứ người em

Ngõ hẹp lối vào gác trọ

Chiều trưa nhạt nắng bên thềm

Bỗng dưng sao lòng se thắt

Vương vương đếm mấy nỗi niềm

Gặp nhau sao mà không nói

Tuổi hiền mà cũng lao đao

Ơ kia làm sao chị khóc

Tình em vẫn như dạo nào

Chị bảo rằng đây mưa nắng

Bốn mùa em có buồn không

Em cười làm sao cay đắng

Chị ơi lệ ở trong lòng

Thi sĩ, những kẻ nghịch đời. Cuộc sống chung quanh của một thi nhân hình như được tạo hóa nặn ra cho một mình anh ta. Cành hoa lìa cuống cũng làm họ khóc huống chi cả một cuộc phân lỳ và hơn thế là cuộc chiến tương tàn. Nguyễn Đức Sơn sinh ra trong thời đại của đói nghèo ly tán cùng chết chóc lầm than của chiến tranh, bằng ấy thứ cộng lại trên đôi vai người Việt khiến ông như hầu hết các thi sĩ khác tất cả đều có chung một ước mơ, ước mơ thanh bình. Vậy mà cách diễn đạt cái ước mơ ấy của Nguyễn Đức Sơn cũng rất khác với mọi người. Cái khác ấy làm nên một Nguyễn Đức Sơn khác biệt.

Mai kia tan biến hận thù

Giữa đêm sao chiếu mịt mù phương đông

Cha về ôm cả biển sông

Duỗi chân duỗi cẳng nằm không một đời

Cho con cha hứa một lời

Đuổi mây thiên cổ rong chơi tối ngày

Thu nào tóc bạc òa bay

Có con chỉ trỏ mới hay tuổi già

Cúi hôn trời đất đậm đà

Cha tan theo bóng trăng tà vạn niên

Sau 30 tháng 4 cuộc đời nhà thơ đổi thay cùng với sự trở mình của đất nước. Trong môi trường đầy biến động ấy có thể làm nhà thơ dị thường thêm một chút, cay đắng hơn một chút nhưng hình như người đọc thấy sự dí dỏm tinh đời trong từng nhận xét của ông qua cách ông nhỉn một giai cấp mới, giai cấp đảng viên. Trong bài: “Tâm sự với một Đảng viên trí thức muốn ra khỏi Đảng” ông viết:

Anh đi cách mạng bao năm

Từ rừng đến phố dao găm chưa xài

Vẫn chưa dứt điểm sòng bài

Tấm thân ê ẩm khuya dài đau sao

Cứ yêu tha thiết đồng bào

Tuy nhiên hễ thấy máu trào thì ngưng

Trả lời tạp chí Bách Khoa trước năm 1975 Nguyễn Đức Sơn thú nhận: "Tôi viết vì bị thúc đẩy bởi một lực ở đằng sau và được thu hút bởi một lực ở phía trước. Ðó là những ma lực làm tôi cảm khoái huyền diệu xa xăm. Thứ cảm khoái này kéo dài được chứ không ngắn như nhục cảm. Viết được một đoạn hay tôi đi lên đi xuống thưởng thức và khoái chí. Nên tôi nghĩ rằng sáng tác cho mình trước hết."

Hơn 40 năm sau Nguyễn Đức Sơn hình như không còn cái hạnh phúc của “đi lên đi xuống” đó nữa, ông trả lời cùng một câu hỏi của trước đây 40 năm mà như tự hỏi lại mình:

“Tôi ngay bây giờ tôi định làm chương trình một bãi thơ lớn lắm, bãi thơ không phải bãi c..không biết có được không (nha… nha…) bây giờ không thể trả lời ngắn được. Tôi không biết tôi viết cho bây giờ hay cho mai sau, tôi không biết được đâu vì nói sao cũng đúng hết mà nói sao cũng trật hết (nha..nha..) Bây giờ tôi đang đứng giữa đồi lên nhà xa lắm mà móc cái điện thoại ra từ trong túi áo, kim băng (nha… nha…) cây kim băng còn dính lòng thòng…

Tôi chỉ muốn làm một người bình thường thôi ngay những người Mỹ tới đây tôi dã dặn trước con cái đừng cho họ vô nhà (nha… nha…) để cho họ khỏi hiểu lầm gì hết tôi muốn bình yên. Hiện bây giờ tôi đang bị giời leo cái bệnh ở dơ trong bụi bặm, giời leo nó khó chịu vô cùng bây giờ nhức nhối đôi khi bực bội không thể chịu được. Giời leo nha anh biết không? Không phải bà leo không phải trời leo nha…”

Nguyễn Đức Sơn có thể là một dị nhân của thi ca Việt Nam qua tính cách, đời sống cũng như nói năng trong ngôn ngữ đời thường, tuy nhiên ông không thể là một dị nhân trong sáng tác của mình vì trong mỗi vuông đất thi ca của riêng ông con người Việt Nam thấy in đậm bóng của họ trong đó. Thơ ông không tách ra khỏi cuộc đời để trở thành dị thường, nó bình thường dễ cảm và đáng ngạc nhiên nhất là rất đậm chất trữ tình của những tâm hồn dân giã .

Mặc Lâm, biên tập viên RFA


Trở lại Trang Chính