Cho một kiếp mơ được yêu nhau

Bài : Tuấn Khanh

Hình : Internet

Audio : NGV.


Tác giả hai bài thơ đã cùng âm nhạc của Phạm Duy trở thành bất hủ trong lòng người Việt, nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh, đã ra đi vào ngày 9/6/2017 tại miền Nam California. Một cái tên lớn của văn hoá Việt Nam đã hoá mây về trời trong những ngày ở quê nhà đầy mưa và mây xám.

Nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh

Kiếp nào có yêu nhau và Đừng bỏ em một mình, là đôi tác phẩm trong hàng loạt các sáng tác của bà như truyện ngắn, truyện dài, thi tập... mà danh mục có đến 17 ấn bản, từ năm 1960 đến 1990.

Tài liệu về bà, chủ yếu được trích từ sách "Văn nghiệp & cuộc đời Minh Đức Hoài Trinh" do phu quân của bà là Nguyễn Huy Quang chép lại (sách đề tác giả là Nguyễn Quang). Hiện sách gần như tuyệt bản. Trong đó nói rõ tiểu sử của bà như sau:

"Minh Đức Hoài Trinh tên thật là Võ Thị Hoài Trinh, bà thường lấy các bút hiệu là Hoàng Trúc, Nguyễn Vinh, Bằng Cử. Bà sinh ngày 15 tháng 10 năm 1930 tại Huế, sống ở Pháp từ năm 1953 đến 1964. Sau đó bà đến định cư tại quận Cam, Hoa Kỳ từ năm 1982. Tên tuổi của Minh Đức Hoài Trinh không ai trong giới văn học không biết. Bà sinh tại Huế, con quan Tổng Đốc Võ Chuẩn, Ông Nội bà là Võ Liêm, Thượng Thư Bộ Lễ của triều đình. Năm 1945 Bà tham gia phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp, sau đó Bà biết sự lợi dụng của phong trào nên bà bỏ về Huế tiếp tục học.

Nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh, thời trẻ tại Paris, Pháp.

Năm 1964 bà đi du học tại Pháp về ngành báo chí và Hán văn tại trường ngôn ngữ Đông Phương La Sorbonne, Paris đến năm 1967 bà ra trường và làm phóng viên cho đài truyền hình Pháp ORTF, lúc đó bà đi làm phóng sự nhiều nơi sôi động nhất như: Algerie và chiến trường Việt Nam. . . Năm 1972 bà được cử theo dõi và tường thuật cuộc hòa đàm Paris. 1973 Bà sang Trung Đông theo dõi cuộc chiến Do Thái, một thời gian sau bà trở về Việt Nam giảng dạy khoa báo chí tại Viện Đại Học Vạn Hạnh năm 1974-1975.

Sau biến cố 1975 bà trở lại Paris cho xuất bản tạp chí “Hồn Việt Nam” và trở lại cộng tác với đài phát thanh ORTF với chương trình Việt ngữ để tranh đấu cho những nhà cầm bút, những văn nghệ sĩ Việt Nam bị cộng sản cầm tù. Bà đứng ra thành lập Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và vận động để được công nhân hội viên Hội Văn Bút Quốc Tế tại Rio de Janeiro, Ba Tây vào năm 1979"...

Về câu chuyện văn bút quốc tế, có rất nhiều chi tiết đáng ngưỡng mộ tâm sức của bà.

Sau năm 1975, rất nhiều hội đoàn chính danh liên kết với quốc tế của miền Nam Việt Nam như Hướng đạo sinh, Ngân hàng, báo chí... đều bị đứt đoạn. Hội nhóm văn chương tự do của miền Nam sau thời điểm đó đều tan tác, mỗi người một hướng.

Theo quy định của Văn bút Quốc tế, muốn tái lập, thì tổ chức nhân danh quốc gia đó phải có ít nhất là 20 thành viên. Từ một nền văn hoá có đến hàng ngàn danh sĩ của miền Nam, việc liên lạc và tập hợp 20 người vào năm 1977 đến 1979 đã trở nên khó khăn vô cùng, nhất là khi cuộc sống của người Việt di tản còn vất vả và ly tán.

Năm 1978, nữ thi sĩ và là nhà báo Minh Đức Hoài Trinh một mình tham dự Đại Hội Văn Bút Quốc Tế kỳ 43 tổ chức ở Stockholm, Thụy Điển, và đơn độc một tiếng nói Việt Nam ở đó, bà vận động các nhà văn và các bút nhóm quốc tế quen biết ủng hộ cho việc thành lập Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (Vietnamese Abroad Pen Centre) chính danh là thành viên của Pen International, với lý do nối kết lại hoạt động của giới trí thức tự do Việt Nam sau chiến tranh. Đây là việc mà ai cũng thấy là vô hy vọng vì sự chống đối mạnh mẽ của phe thân cộng, lúc đó đang nổi lên trong Pen International. Nhưng kết quả bỏ phiếu thì thật bất ngờ: 23 phiếu thuận – 23 phiếu chống. Rất nhiều nhà văn trong hội đồng đã cảm động trước tâm nguyện của bà nên đã bỏ phiếu đồng ý. Tiếc là kết quả không như ý.

Năm 1979, tại Đại Hội Đồng Văn Bút Quốc Tế kỳ 44 ở Rio de Janeiro, Brazil, cuộc vận động của nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh thành công. Và Văn Bút Việt Nam Hải ngoại tồn tại đến ngày hôm nay, vẫn chính danh là nhánh văn bút quốc tế thuộc Pen International.

Mục đích và tâm lực của nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh là muốn xây dựng một tiếng nói truyền thông có tầm quốc tế cho giới trí thức người Việt đang phải ly tán, nhất là vào lúc khi muốn cất tiếng thì lại quá lạc loài. Tầm nhìn của một phụ nữ như bà, vào thời gian ấy, quả thật đáng ngưỡng mộ.

Từ năm 1982, Minh Đức Hoài Trinh định cư ở Hoa Kỳ, sau đó ở gần nơi cư trú của nhạc sĩ Phạm Duy. Nơi Midway City, mà ông thường diễn dịch một cách thơ mộng là Thị trấn giữa đàng.

Nói về cơ duyên của sự kết hợp thi ca và âm nhạc của Kiếp nào có yêu nhau và Đừng bỏ em một mình, nhạc sĩ Phạm Duy có ghi lại trong hồi ký Vang vọng một thời: “Tôi bấy giờ đang là quân nhân... bỗng gặp lại Minh Đức Hoài Trinh lúc đó được mười bảy tuổi từ thành phố Huế thơ mộng chạy ra với kháng chiến. Nàng còn đem theo đôi gót chân đỏ như son và đôi mắt sáng như đèn pha ô tô. Từ tướng Tư lệnh Nguyễn Sơn cho tới các văn nghệ sĩ, già hay trẻ, độc thân hay đã có vợ con... ai cũng đều mê mẩn cô bé này. Phạm Ngọc Thạch từ Trung ương đi bộ xuống vùng trung du để vào Nam bộ, khi ghé qua Thanh Hóa, cũng phải tới Trường Văn hóa để xem mặt Hoài Trinh. Hồi đó, Minh Đức Hoài Trinh đã được Đặng Thái Mai coi như là con nuôi và hết lòng nâng đỡ.

Năm 1954, tôi gặp Minh Đức Hoài Trinh lần thứ ba khi tôi tới Paris ở khoảng hai năm. Nàng đã rời Việt Nam, đang sống với một người em trai trong một căn phòng nhỏ hẹp. Ba lần gặp nhau là rất hy hữu, tôi bèn giao lưu với nàng và soạn được hai bài ca bất hủ”...

Nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh thập niên 1960

Là người sống cùng thời đại với nữ văn sĩ Pháp Francoise Sagan, và cũng là người theo Tây học nhưng tư tưởng bàng bạc theo thuyết cõi tạm của Phật giáo, ngôn ngữ của bà luôn u uẩn nhưng ngôn từ của bà thì dữ dội và đắm đuối đến ngộp thở, đọc lại vẫn bàng hoàng:

"Đừng bỏ em một mình

Trời đất đang làm kinh

Rừng xa quằn quại gió

Thu buốt vết hồ tinh"

Hay

"Kiếp nào có yêu nhau

Nhớ tìm khi chưa nở

Hoa xanh tận nghìn sau

Tình xanh không lo sợ

Hoặc trong bài "Tình chúng mình sẽ được vẽ lên tranh" có đoạn:

"Anh còn sống là mình còn xa cách

Vì cuộc đời hay ghét kẻ yêu nhau

Vì hạnh phúc phải xây trên nhiều thử thách

Xã hội điên cuồng, nhân loại ngợp thương đau"

Tạm biệt bà, một danh nhân của nền văn hoá đầy sức sống mãnh liệt của miền Nam Việt Nam tự do. Thêm một người nữa đã khuất, và thêm những núi đồi hùng vĩ lại mọc lên mà hậu sinh sẽ cứ phải ngước nhìn trong trầm mặc. Những ngọn núi nhắc rằng đỉnh cao của kiếp người là để sống và mơ được yêu thương nhau, dẫu muôn thương đau.

***

Phụ lục: Các tác phẩm của Minh Đức Hoà Trinh đã xuất bản gồm có: Lang Thang (1960), Thư Sinh (1962), Bơ Vơ (1964), Hắn (1964), Mơ (1964), Thiên Nga (1965), Hai Gốc Cây (1966), Sám Hối (1967), Tử Địa (1973), Trà Thất (1974), Bài Thơ Cho Ai (1974), Dòng Mưa Trích Lịch (Thanh Long Bruxelles, 1976), Bài Thơ Cho Quê Hương (Nguyễn Quang Paris 1976), This Side The Other Side (Occidental Press USA 1980), Bên Ni Bên Tê (truyện dài, Nguyễn Quang USA, 1985), Niệm Thư 1 (tái bản 1987), Biển Nghiệp (Nguyễn Quang USA, 1990).

Nguồn : tuankhanh's blog

***

Bài đọc thêm

Nhạc Phạm Duy đưa tên tuổi Minh Đức Hoài Trinh đi xa hơn

Vũ Đình Trọng

Nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh vừa qua đời hôm 9 Tháng Sáu. Bà được nhiều người ngưỡng mộ với hai bài thơ “Kiếp Nào Có Yêu Nhau” và “Đừng Bỏ Em Một Mình.” Đặc biệt, hai bài thơ này nổi tiếng hơn khi được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc.

Không thể phủ nhận, nhạc sĩ Phạm Duy là cây cổ thụ trong nền âm nhạc Việt Nam. Và cũng không thể phủ nhận qua hai ca khúc phổ thơ này, nhạc của ông đã đưa tên tuổi của nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh đến gần với công chúng hơn.

Trong hồi ký “Vang Vọng Một Thời,” nhạc sĩ Phạm Duy từng kể về sự kết hợp giữa thơ và nhạc qua hai bài “Kiếp Nào Có Yêu Nhau” và “Đừng Bỏ Em Một Mình:”

“Tôi bấy giờ đang là quân nhân… bỗng gặp lại Minh Đức Hoài Trinh lúc đó được mười bảy tuổi từ thành phố Huế thơ mộng chạy ra với kháng chiến. Nàng còn đem theo đôi gót chân đỏ như son và đôi mắt sáng như đèn pha ô tô. Từ Tướng Tư Lệnh Nguyễn Sơn cho tới các văn nghệ sĩ, già hay trẻ, độc thân hay đã có vợ con… ai cũng đều mê mẩn cô bé này. Phạm Ngọc Thạch từ trung ương đi bộ xuống vùng trung du để vào Nam Bộ, khi ghé qua Thanh Hóa, cũng phải tới Trường Văn Hóa xem mặt Hoài Trinh. Hồi đó, Minh Đức Hoài Trinh đã được Đặng Thái Mai coi như là con nuôi và hết lòng nâng đỡ.

Năm 1954, tôi gặp Minh Đức Hoài Trinh lần thứ ba khi tôi tới Paris ở khoảng hai năm. Nàng đã rời Việt Nam, đang sống với một người em trai trong một căn phòng nhỏ hẹp. Ba lần gặp nhau là rất hi hữu, tôi bèn giao lưu với nàng và soạn được hai bài ca bất hủ”…

Audio :

* Đừng Bỏ Em Một Mình Thái Hiền

* Đừng Bỏ Em Một Mình Lệ Thu

* Đừng Bỏ Em Một Mình Ý Lan

* Kiếp Nào Có Yêu Nhau Khánh hà

* Kiếp Nào Có Yêu Nhau Lệ Thu

* Kiếp Nào Có Yêu Nhau Ngọc Hạ

* Kiếp Nào Có Yêu Nhau Tuấn Ngọc

* Kiếp Nào Có Yêu Nhau Thái Thanh

* Kiếp Nào Có Yêu Nhau Ý Lan

Nhà phê bình Đặng Tiến (Pháp), trong bài “Phạm Duy: Thơ Phổ Nhạc” năm 2011, nhận định: “Trên 300 bài nhạc phổ thơ thì còn khoảng 100 bài phổ biến một số bài được truyền tụng, trở thành kinh điển trong lịch sử âm nhạc, khiến nhiều người dọ hỏi ‘bí quyết’ phổ nhạc. Có lúc làm Phạm Duy bực mình, vì ‘làm nhạc chớ có phải nấu phở đâu.’ Nhưng có lúc nhạc sĩ vui tính trả lời, như khi đưa ra ví dụ bài ‘Kiếp Nào Có Yêu Nhau,’ phổ nhạc thơ Minh Đức Hoài Trinh (1958) và thổ lộ ‘bí quyết.’ Lời hát:

‘Đừng nhìn em nữa anh ơi!

Hoa xanh đã phai rồi, hương trinh đã tan rồi

Đừng nhìn em! Đừng nhìn em nữa anh ơi!

Đôi mi đã buông xuôi, môi nhăn đã quên cười.

Hẳn người thôi đã quên ta!

Trăng Thu gầy đôi bờ, chim bay xứ xa mờ.

Gặp người chăng? Gặp người chăng, nhắn cho ta

Hoa xanh đã bơ vơ, đêm sâu gối ơ thờ.

Kiếp nào có yêu nhau, thì xin tìm đến mai sau

Hoa xanh khi chưa nở, tình xanh khi chưa lo sợ

Bao giờ có yêu nhau, thì xin gạt hết thương đau

Anh đâu anh đâu rồi? Anh đâu anh đâu rồi?…’

‘Bạn bè yêu nhạc thường hỏi tôi về cái gọi là ‘bí quyết phổ nhạc.’ Âu là tôi xin phép nữ sĩ Hoài Trinh cho tôi được in ra sau đây nguyên bản của bài thơ để bạn so sánh:

Anh đừng nhìn em nữa

Hoa xanh đã phai rồi

Còn nhìn em chi nữa

Xót lòng nhau mà thôi

Người đã quên ta rồi

Quên ta rồi hẳn chứ

Trăng mùa Thu gãy đôi

Chim nào bay về xứ?

[…] Kiếp nào có yêu nhau

Nhớ tìm khi chưa nở

Hoa xanh tận nghìn sau

Tình xanh không lo sợ…’

Chắc bạn đọc cũng thấy bài thơ phổ nhạc được tôi thêm câu, thêm chữ. Phổ nhạc là chắp cánh cho thơ bay cao. Bài thơ ngắn ngủi, cô đọng này, vì có thêm chữ nên không còn tiết vần đều đều, bằng phẳng nữa. Bây giờ nó quay cuồng theo nét nhạc, câu nhạc. Giai điệu của câu ‘Đừng nhìn em nữa anh ơi’ chuyển rất đột ngột, đi từ nốt trầm lên nốt cao nhất với hai ‘nhảy bực’ quãng 5 để diễn tả sự tột độ của tình cảm. Cái syncope sau câu ‘Đừng nhìn em’ làm cho mọi người thấy được sự nghẹn ngào của bài thơ và bài hát.’

(Ngoài đề: Câu ‘Hương trinh đã phai rồi,’ Phạm Duy thêm vào, là… hóm)

Nói thêm cho rõ: Ca khúc gồm 154 chữ, dài gấp rưỡi bản gốc. Bản gốc là thơ năm chữ theo luật thi, nhịp lẻ; ca từ nhịp chẵn 6-10 theo sườn lục bát vần lưng kết hợp với vần chân; hai câu ngũ ngôn trở thành bán cú (hémistiche) cho câu 10 từ với vần giữa câu. Như vậy, chỉ về âm luật thôi, bài hát đã khác bài thơ. Những câu, những từ, những âm (đừng… đã) luyến láy tạo ý nghĩa mới cho lời thơ – chưa kể nhạc thuật phong phú, tha thiết mang chất bi kịch.”

Đó là cái nhìn của một người phê bình âm nhạc. Riêng với chúng ta – người nghe, chỉ cần cảm thấy hay là đủ. Nếu đọc lời thơ và ca từ để so sánh, tôi đồng ý với nhà phê bình Đặng Tiến, Phạm Duy đã đưa bài thơ lên một tầm cao mới, nhờ giai điệu trầm bổng, khát khao…

Với bài thơ, và ca khúc “Đừng Bỏ Em Một Mình,” thì tôi nghĩ khác.

Nếu không biết bài thơ gốc, mà chỉ nghe ca khúc này thôi thì đây quả là một bài hát tuyệt vời. Qua những chữ được nhạc sĩ lặp lại, nỗi đau như được dàn trải: “Đừng bỏ em một mình/ đừng bỏ em một mình/ trời lạnh quá trời lạnh quá/ sao đành bỏ em một mình.” Hay: “Chiều lộng gió chiều lộng gió/ sao anh đành bỏ em.”

Còn ở đoạn cao trào này, có những nốt cao như sự giằng xé nội tâm, nhưng vẫn là một nỗi đau chơi vơi, lăng đăng của một linh hồn đứng trên cao nhìn thân xác mình sắp tàn rữa: “Lời nào đó lời nào đó/ tiếng ân tình hay tiếng cầu kinh/ nhạc nào đó nhạc nào đó/ nhạc gọi người hay nhạc gọi hồn.”

Ở bài thơ gốc, trong bốn câu thơ đầu, nỗi đau dù nhẹ, nhưng đã thấm chuyện “tử-biệt, sinh-ly:” “Đừng bỏ em một mình/ Khi trăng về lạnh lẽo/ Khi chuông chùa u minh/ Chậm rãi tiếng cầu kinh.”

Bốn câu tiếp, nỗi đau bắt đầu mạnh dần: “Đừng bỏ em một mình/ Khi mưa chiều rào rạt/ Lũ chim buồn xơ xác/ Tìm nhau gục vào mình” và tăng cường độ: “Đừng bỏ em một mình/ Trời đất đang làm kinh/ Rừng xa quằn quại gió/ Thu buốt vết hồ tinh.”

Câu “Trời đất đang làm kinh” làm cho nỗi đau trở nên ai oán hơn, khiến đất trời cũng phải “trở mình nhỏ máu.” Cho đến những đoạn cuối: “Đừng bỏ em một mình/ Cho côn trùng rúc rỉa/ Cỏ dại phủ mộ trinh/ Cho bão tố bấp bênh.”

Nỗi đau trở nên kinh hoàng của người nằm dưới mộ sâu. Nó đặc quánh trong đầu óc, trong thân thể, tạo tiếng gào thét không thanh âm, tê buốt da thịt.

Không thể phủ nhận, nhạc sĩ Phạm Duy là cây cổ thụ trong nền âm nhạc Việt Nam. Và cũng không thể phủ nhận qua hai ca khúc phổ thơ này, nhạc của ông đã đưa tên tuổi của nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh đến gần với công chúng hơn.

Nguồn :Người Việt Online


***

Võ Phiến và một cuốn truyện dài của Minh Đức Hoài Trinh

Bài : Vương Trí Nhàn

Nguyễn Đào Nhận sưu tầm

Ở Hà Nội trước 1975, tên tuổi của Minh Đức Hoài Trinh thường được các bậc đàn anh của tôi như Bùi Hiển, Vũ Tú Nam... nhắc tới mỗi khi nhớ lại Lớp văn nghệ ở Quần Tín Thanh Hóa ( khoảng 1949-50) Về sau tôi thỉnh thoảng có gặp tên bà khi đọc Bách khoa, nơi Võ Phiến, Vũ Hạnh là cộng tác viên trụ cột. Đâu hồi đó bà đã ở Pháp và thường viết quanh đề tài người Việt sống ở nước ngoài. Mấy hôm nay, nghe tin bà đã qua đời ở Mỹ, lục tìm trong tập bài báo của Võ Phiến trên Chính luận có bài dưới đây, xin giới thiệu lại.

Trà thất [1]

Nửa đêm, người đàn bà lẩm bẩm: “Trà thất”. Người chồng năm bên cạnh nghe tiếng vợ nói, lấy làm thắc mắc, hỏi:

- Tại sao em lại nói lên hai chữ ấy ?

Người vợ trả lời qua loa:

- “Tại xứ Nhật Bản, những gia đình khá giả, ngoài ngôi nhà chính để ở, người ta còn cất thêm một ngôi trà thất trong góc vườn, nếu không có vườn thì lấy một gian riêng biệt ngay trong nhà. Bước vào nơi ấy tâm hồn sẽ thanh thản”... (trang 9).

Người vợ nói một lát thì nghe tiếng chồng ngáy. Thế là thoát; nàng khỏi phải tiếp tục nói quanh co. Bởi vì đâu có phải tại bên xứ Nhật Bản những gia đình khá giả có ngôi trà thất trong góc vườn, mà rồi tự dưng giữa đêm khuya một người đàn bà Việt Nam nằm bên chồng lại kêu lên hai tiếng “trà thất” ?

Hẳn là trong đó phải có chuyện rắc rối nào đó chứ.

***

Quả nhiên. Câu chuyện rắc rối xảy ra như sau:

Duyên là một cô gái hội đủ mọi cái tốt: con nhà giàu, học giỏi, thể thao giỏi, khôn ngoan, thông minh, và đẹp, và có duyên, và đứng đắn v.v... Duyên đang học tại một trườn bà Xơ, vừa đậu tú tài một, nói tiếng Pháp như gió. Cuối năm học ấy nàng bắt gặp tình yêu trong đêm văn nghệ do trường tổ chức.

Trong đêm ấy, một nữ nghệ sĩ ngâm bài thơ “Hạng Vũ biệt Ngu Cơ” giọng ngâm đã hay mà tiếng sáo dặt dìu quấn quít quanh tiếng ngâm lại càng hay. Duyên mê tiếng sáo, chờ xem mặt người thổi sáo.

Màn hạ, các nghệ sĩ ra chào khác, người thổi sáo không chào. Người thổi sáo đã bỏ ra về từ trước, không thiết đến những lời khen ngợi, tiếng hoan hô v.v... Duyên lại càng phục người thổi sáo.

Rồi sau đó, Duyên cũng được giới thiệu để làm quen với Quốc, người thổi sáo. Quốc quả thật không giống ai: Giữa thời buổi này, chàng yêu thích những cái của thời trước. Chàng thích uống trà tàu ngon, chàng sành chơi các thứ hoa cúc; chàng thích ngắm tranh Tàu cổ v.v... Người tầm thường có thể chê chàng là lỗi thời; nhưng Duyên không tầm thường. Duyên biết quí một tâm hồn độc đáo, không bị lôi cuốn vào những cái thời thượng.

Giữa thời buồi mà mọi người đuổi theo đồng tiên, thì Quốc cứ lửng lơ, không thiết gì đến tiện nghi, tài sản.

Chàng không bon chen vất vả, chỉ làm qua loa đủ sinh sống mà thôi. Miễn sao sống thích ý: được có thì giờ để thổi sáo, để chăm hoa, để uống trà, để xem tranh Tàu.

Quốc có tiếng là gàn, là lạnh lùng với phụ nữ, nhưng dĩ nhiên, chàng không lạnh lùng được với Duyên: trai tài gái sắc gặp nhau, họ mến nhau ngay.

Cho đến tình yêu, Quốc cũng không giống ai. Chàng nghiêm chỉnh, chàng cao thượng.

Một hôm, chỉ có hai người trong nhà, Duyên ôm cánh tay Quốc áp má mình vào đấy, Duyên cắn nhẹ vào cánh tay chàng. Họ nói đùa với nhau:

-“Thịt anh ngon lắm.

- Sao anh biết được ?

- Chắc thế.

- Ăn thử nhé, cho không ?

- Cho” (trang 154).

Đến đây, Quốc đứng lên kéo tay Duyên, đưa nhau ra vườn để ... xem hoa cúc !

Chàng không cho phép sự thể tiến xa hơn.

Rồi sự thể quả không tiến xa. Nó dừng loại nửa vời một cách tức tưởi.

Một hôm, có người đến hỏi cưới Duyên cho một thanh niên vừa đậu bác sĩ ở ngoại quốc về. Chàng thanh niên là con trai của một vị tướng có tiếng tốt trong xã hội, chàng đẹp trai, có tư cách, thông minh, tế nhị v.v... Gia đình Duyên làm sao lại không nhận lời một đám như thế ?

Duyện chạy đến nhà Quốc bật khóc: Em yêu anh, xin anh cứu em, xin anh mời má ở Huế vào ngay để hỏi cưới em v.v...

Quốc từ chối: Người thanh niên được gia đình chọn cho em là một người xứng đáng. Còn anh không có địa vị, không có bằng cấp, gia đình em đời nào chấp nhận một thằng con trai thất nghiệp như anh. Vả lại anh chắc anh không đủ sức đưa hạnh phúc lại cho ai cả.

Bị người yêu gàn từ chối, Duyên vâng lời mẹ đi lấy chồng. Và Ấn, chồng nàng của là một người chồng lý tưởng, đã tạo được hạnh phúc trong gia đình.

Ngày Duyên lên xe hoa, Quốc đập bể ống sáo. Rồi chàng sang Pháp sống mười năm. Vẫn gàn dở, vẫn nghệ sĩ và vẫn được gái yêu tới tấp.

Có một cô đầm - Francoise - vừa bị Quốc vô ý đụng nhằm trong một tiệm sách, liền yêu Quốc ngay, và cứ thế liên tục tấn công, cho đến khi được nằm gọn vào giường Quốc.

Sự thực Francoise mới sinh ra đã hướng về Á châu, từ bé đã thích nghe nói về Á châu, và nhất định lớn lên sẽ lấy chồng Á châu. Mặc dù vậy, mối nhân duyên trời định cũng không cầm chân Quốc ở Pháp được: sau mười năm ly hương, chàng về nước.Chàng gặp lại Duyên lúc bấy giờ đã có hai con.

Chàng là bạn của gia đình Duyên. Riêng đối với Duyên, chàng là một ngôi trà thất ở góc vườn, để thỉnh thoảng nàng đến tìm lại sự thanh thản trong tâm hồn. Còn Ấn là ngôi nhà chính để ở.

***

“Mối tình tra thất”, một mối tình trong sạch bên lề hạnh phúc gia đình, chuyện ấy xưa nay vẫn có, vẫn thường được nói đến. Nhưng nhân vật làm “trà thất” của Minh Đức Hoài Trinh là một nhân vật thời đại.

Chàng sợ “bị chỉ trích là lạc hậu, bảo thủ, thoái hóa” (trang 26). Đâu có! Thích nghệ thuật Á Đông hơn Âu Tây, thích nước trà hơn nước ngọt v.v... mà bị lạc hậu sao ? Không. Thời trang đấy. “Về nguồn” cũng là một thời trang, không sao ? Được gái mê là phải, có gì lạc hậu đâu ?

Gái học chương trình Pháp mà nghe nói chuyện về trà Tàu, tranh Tàu với hoa cúc “quân tử”, thì phải phục sát đất. Nhất khi những câu chuyện nọ lại được Minh Đức Hoài Trinh mớm cho Quốc: bởi vì người nữ sĩ này vẫn có tiếng là đi nhiều, biết nhiều, nhớ nhiều. Nói đến cúc thì nào là cúc Hoàng Kim Ấn, cúc Túy Dương Phi, nào là cúc Đan Phượng Đài, cúc Trầm Hương Phiến v.v.. ; nói đến lan thì Tiểu la lan, Đoản kiếm lan, Tiểu kiếm lan v.v.. ; nói đến tranh thì nào là Tảo xuân đồ của Quách Hy, Mặc trúc của Văn Đỗng, nào là nét vẽ của Triệu Can đời Ngũ Đại v.v...

Chỉ nguyên những kiến thức ấy đã gây hứng thú cho người đọc sách rồi. Đây là cái sở trường của tác giả.

***

Người đọc cũng tìm thấy hứng thú ở những liên hệ giữa tác giả và tác phẩm.

Theo quan điểm của nhân vật chính trong tác phẩm thì Á Đông đáng yêu hơn Âu Tây; tác giả là người Á Đông.

Ở Á Đông, người Việt “khả thấu” hơn các dân tộc khác: tác giả là người Việt.

Ở Việt Nam, Huế đáng mê nhất (trang 37): tác giả là người Huế. Nghệ sĩ hơn khoa bảng, tác giả là một nghệ sĩ.

Uống trà thú hơn uống nước ngọt tác giả là người sành trà v.v....

Đại khái như thế. Cho nên “Trà Thất” là tác phẩm của một tác giả sung sướng. Sung sướng vì gần với mẫu người lý tưởng của mình.

Người độc giả ranh mãnh có thể nghĩ: Tác giả dám là một trà thất lý tướng lắm đa.

-----------------------------------------------------------------------

[1] Truyện dài của Minh Đức Hoài Trinh - Phục Hưng xuất bản

Nguồn : vuongtrinhan.blogspot

***


Thơ " Kiếp Nào Có Yêu Nhau " và " Đừng Bỏ Em Một Mình " của Thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh

Kiếp Nào Có Yêu Nhau

Minh Đức Hoài Trinh

Anh đừng nhìn em nữa

Hoa xanh đã phai rồi

Còn nhìn em chi nữa

Xót lòng nhau mà thôi

Người đã quên ta rồi

Quên ta rồi hẳn chứ

Trăng mùa thu gãy đôi

Chim nào bay về xứ

Chim ơi có gặp người

Nhắn giùm ta vẫn nhớ

Hoa đời phai sắc tươi

Đêm gối sầu nức nở

Kiếp nào có yêu nhau

Nhớ tìm khi chưa nở

Hoa xanh tận nghìn sau

Tình xanh không lo sợ

Lệ nhòa trên gối trắng

Anh đâu, anh đâu rồi

Rượu yêu nồng cay đắng

Sao cạn mình em thôi.

***

Đừng Bỏ Em Một Mình

Minh Đức Hoài Trinh

Đừng bỏ em một mình

Khi trăng về lạnh lẽo

Khi chuông chùa u minh

Chậm rãi tiếng cầu kinh

Đừng bỏ em một mình

Khi mưa chiều rào rạt

Lũ chim buồn xơ xác

Tìm nhau gục vào mình

Đừng bỏ em một mình

Trời đất đang làm kinh

Rừng xa quằn quại gió

Thu buốt vết hồ tinh

Đừng bỏ em một mình

Đừng bắt em làm thinh

Cho em gào nức nở

Hòa đại dương mông mênh

Đừng bỏ em một mình

Biển đêm vời vợi quá

Bước chân đời nghiêng ngả

Vũ trụ vàng thênh thênh

Đừng bỏ em một mình

Môi vệ thần không linh

Tiếng thời gian rền rĩ

Đường nghĩa trang gập ghềnh

Đừng bỏ em một mình

Bắt em nghe tiếng búa

Tiếng búa nện vào đinh

Hòa trong tiếng u minh

Đừng bỏ em một mình

Bóng thuyền ma lênh đênh

Vòng hoa tang héo úa

Yêu quái vẫn vô tình

Đừng bỏ em một mình

Cho côn trùng rúc rỉa

Cỏ dại phủ mộ trinh

Cho bão tố bấp bênh

Đừng bỏ em một mình

Mấy ngàn năm sau nữa

Ai mái tóc còn xinh

Đừng bỏ em một mình



Trở lại Trang Chính