Kim Khánh sưu tầm & tổng hợp
I. Hát ru là một thể loại Dân ca
Hát ru là một loại hình dân ca đã có tự lâu đời, phổ biến ở nhiều vùng, nhiều tộc người trên khắp mọi miền đất nước; được diễn xướng bằng ngôn ngữ riêng của mỗi tộc người và được sử dụng với mục đích chính là đưa em bé vào giấc ngủ. Ở mỗi tộc người, điệu hát này có một tên gọi riêng: hát ru con, hát ru em (Việt); ú lục non (Thái), ru ún (Mường), ứ nọng nòn, vén eng, vén nọng nèn (Tày, Nùng); khổng mí nhủa, lù tra mí nhủa (H’Mông); gu nư, gu anứh (Chăm); bompê kôn, bompê chao (Khmer); niêng kôon (Xtiêng); um con (Ba Na); ping điêng con (Châu Ro); yài kòn, nao nờh kòn (Châu Mạ)…
Thể loại hát ru hình thành từ rất sớm, được lưu truyền một cách mạnh mẽ và bền lâu từ thế hệ này sang thế hệ khác, là tài sản dân ca mà dân tộc nào cũng có. Các công trình khảo cứu phong tục sớm nhất ở nước ta đều ghi chép về lối hát theo tập quán truyền thống này.
Cuốn Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính liệt kê hát ru cùng các điệu ca khúc lục bát khác như hát xẩm, hát trống quân, hát quan họ, hát đò đưa ở mục “Văn chương”, cuốn Nếp cũ của Toan Ánh liệt kê các điệu hát trong lúc làm việc để con người đỡ mệt như hát đò đưa, hò tát nước, hò kéo gỗ..., hoặc có tác dụng hẳn với việc làm như hát ru em ở mục “Các giọng ca hát bình dân”.
II. Các dạng thức của Hát ru
Hát ru rất đa dạng, có thể được phân loại theo vùng miền: hát ru Bắc Bộ, hát ru Trung Bộ, hát ru Nam Bộ; theo tộc người: hát ru người Việt, hát ru người Thái, hát ru người Mường…; theo thể thức làn điệu: hát ru – nói ngâm, hát ru – ca xướng; hò ru…; theo đối tượng: hát ru con, hát ru cháu, hát ru em; theo môi trường diễn xướng: Hát ru trong sinh hoạt thế tục, hát ru trong sinh hoạt nghi lễ…
Môi trường hát ru trước hết và chủ yếu là ở trong không gian sinh hoạt gia đình, mẹ hát ru con, bà hát ru cháu, chị hát ru em để dỗ dành trẻ nhỏ vào giấc ngủ, bên chiếc nôi đưa hoặc cánh võng. Cũng có khi tiếng hát ru được cất lên trong môi trường lao động khi người mẹ địu theo đứa con thơ lên nương, vào rẫy, khi kiếm củi, hái rau...
Lại cũng có trường hợp, người ta hát ru trong môi trường nghi lễ, tín ngưỡng, chẳng hạn trong một lễ nhập cữ của người H’mông, bên cạnh những kỷ vật như kiềng cổ bạc, khối sắt của ông cậu, chiếc mũ của bà ngoại…, đứa trẻ mới sinh còn được bà cúng mụ trao truyền cho tiếng hát ru, sau những lời cầu khấn tổ tiên và lực lượng siêu nhiên phù hộ đứa trẻ khỏe mạnh.
Người Thái cũng có một điệu thức hát ru gọi là Quám há phú sáư kamon (lời hà hơi vào thóp) chỉ dành để hát ru cho đứa trẻ mới sinh còn chưa liền thóp; người mẹ sẽ vừa hát ru vừa hà hơi vào thóp đứa bé như một nghi thức ma thuật cầu mong đứa trẻ mạnh khỏe, lớn nhanh.
Giáo sư Trần Văn Khê cho rằng, hát ru không chỉ khiến trẻ dễ ngủ mà còn dạy trẻ biết yêu gia đình, yêu quê hương đất nước. Bởi lời của hát ru là lời hay ý đẹp của ông cha ta đúc kết từ muôn đời. Ngày trước, trai gái vùng nông thôn thường hát đối đáp rất nhuần nhuyễn cũng vì họ được nuôi dưỡng từ kho văn học – nghệ thuật quý giá đó.
III. Cấu trúc của một điệu Hát ru
Cấu trúc chung của một điệu hát ru luôn là hai thành tố: “tiếng đưa hơi” và “câu ru, lời ru”. Tiếng đưa hơi thường là các tiếng À ơi, Ù ơ, Ầu ơ, Bống bông, Hời hời, Ru hời, ụt ới ụt ơi… được gọi chung là “âm điệu cơ bản” của thể loại ru, vì nó khá giống nhau giữa các dân tộc.
Có quan điểm cho rằng, những từ này chính là sự cách điệu hóa tiếng khóc của đứa trẻ. Đứa trẻ thường có hai kiểu khóc chính. Khi bị xúc động mạnh như sợ hãi, đau đớn, giận hờn thì khóc “oa oa” hay “oe oe”, đó là tiếng khóc biểu cảm. Còn trong trường hợp đói ăn, buồn ngủ thì nó khóc “u ơ”, đó là tiếng khóc tín hiệu. “U ơ” tùy theo phương ngữ trở thành à ơi, ù ơ, ầu ơ…
Phần câu ru, lời ru thì đa dạng, phong phú, không giống nhau giữa các dân tộc, nhưng có điểm chung là được lấy phần lớn từ các lời thơ dân gian rồi thêm những tiếng đệm, tiếng láy và tiếng đưa hơi vào, được hát lên theo một tiết tấu đều đặn, nhịp nhàng, có chu kỳ lặp lại để dễ dàng đưa đứa trẻ vào giấc ngủ.
IV. Công dụng của những bài Hát ru
Công dụng quan trọng nhất của những bài hát ru là trợ giúp giấc ngủ của đứa trẻ. Một khi đứa trẻ còn chưa ngủ thì người ru sẽ hát mãi, chắp nối các câu hát khác nhau vào mà hát cho đến khi đứa trẻ ngủ rồi mới thôi. Bên cạnh đó, những bài hát ru cũng thực hiện nhiệm vụ chuyển tải thông tin một cách độc đáo. Người hát ru có thể đưa vào bài hát những lời dạy dỗ đứa trẻ các kiến thức sơ đẳng về cuộc sống :
“Con mèo, con chó có lông
Đòn gánh có mấu, nồi đồng có quai”
hoặc thể hiện tình yêu thương con vô bờ bến và đức hy sinh thầm lặng của người mẹ :
“Nuôi con chẳng quản chi thân
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn”
hay thổ lộ những tâm sự thầm kín như nỗi nhớ chồng đang ở xa, nỗi than phiền những cơ cực của đời sống, ca ngợi đạo lý gia đình…Những nội dung và các hình ảnh cụ thể được sử dụng để thể hiện trạng thái tình cảm này, ở mức độ nào đó mang sắc thái đặc trưng của từng dân tộc, qua đó mà có thể thấy những nét cơ bản nhất trong tâm hồn, cảm xúc, tiếng nói của mỗi dân tộc. Hát ru là một sản phẩm văn hóa nghệ thuật vừa có giá trị ích dụng vừa có giá trị tinh thần.
V. Hát ru của người Kinh (hát ru 3 miền Bắc, Trung, Nam)
Hát ru người Việt từ chiếc nôi sông Hồng (hát ru đồng bằng Bắc Bộ, hát ru trung du Bắc Bộ) chạy theo dòng chảy dọc miền duyên hải Trung Bộ, tạo nên ba gam màu mang sắc riêng của ba vùng: Thanh – Nghệ - Tĩnh (Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh); Bình – Trị - Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị, và Thừa Thiên Huế); Nam Trung Bộ (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên…).
Bên cạnh những đặc điểm phổ quát, mỗi vùng miền lại có những nét riêng biệt về lời ca, thang âm, thể điệu. Ví dụ, ở Bình – Trị - Thiên gọi hát ru là hò ru, do thường lấy những tiếng xô của hò thay cho tiếng ru (“là dô dô hậy y hậy dô”); kết cấu một lời ru tương ứng với hai câu lục bát, đệm những tiếng “bồng bồng”, mang sắc thái nhịp nhàng, đều đặn.
Hát ru Nam Trung Bộ thường có cấu trúc hai đoạn. Đoạn I có nhịp điệu chậm rãi, sắc thái tha thiết dịu dàng, tạo một giai điệu ngọt ngào, dễ buồn ngủ (“à ơi, chiều chiều lại nhớ chiều chiều…”; “à ơi, khăn điều vắt vai”…); đoạn II ứng dụng thang 4 âm dạng IV, V (một thang âm đặc thù, để lại dấu ấn rõ nét trong một số làn điệu dân ca Nam Trung Bộ như Lý cô ba, Lý hoa thơm, Lý thương nhau, Hò khoan, Vè Quảng…), giai điệu gần như thể hát nói (“áo vắt vai quần hai ống ướt, chữ nghĩa lần nào lấn lướt vô thi”…).
VI. Hát ru của các dân tộc thiểu số
Những bài hát ru của các dân tộc thiểu số sống rải rác ở hầu khắp các tỉnh thượng du và trung du Bắc Bộ mang nhiều sắc thái, dáng vẻ phong phú và đa dạng. Do quá trình cộng cư và sinh sống ổn định từ lâu đời, hát ru vùng này có thể nhận diện qua các nhóm ngôn ngữ: Việt – Mường; Tày – Thái; H’mông – Dao; Tạng – Miến.
Đặc điểm chung dễ nhận thấy là những bài hát ru hầu như có những nét dạo đầu, biểu hiện nhiều tiếng ru độc đáo, như
- bài Ru em (Mường, Hòa Bình) với “Bồng bống bang bồng bống bống ru hời”;
- bài Ru con (Tày) với “Ú ù la hây! Tẩy tì u u!”;
- Ru con ngủ (Thái) với “U ú lả ú u u, non ú lả non ơi”;
- hát ru (Dao Đỏ) với “Ẩy u ẩy an ù ẩy an” hay “ư ư ư u ơi u ơi”…
Đối với các dân tộc này, điệu hát ru bắt đầu bằng nguyên âm “Ứ”, vừa là tên gọi của chiếc nôi (ăn ứ: chiếc nôi), vừa là động từ có nghĩa là “ru”.
Lấy ví dụ cấu trúc một bài hát ru Mường (Thanh Hóa) thường có 3 phần: Mở - Giữa - Đóng :
- Mở đầu bài ru thường là: “lếu lếu lêu làng lốc, cố trôốc con ùn tảy ti, rú ru là rày rày, à í ôi à í ơi”;
- đoạn giữa là nội dung chính bài ru muốn đề cập;
- kết thúc bài ru thường là: “úch ò mế ới ơi.. ” hay “là ụt ới là ụt ơi”.
Ở đoạn nội dung, người hát có thể sử dụng bất cứ câu thơ, chùm thơ hay cả một bài thơ, một trích đoạn truyện thơ có sẵn làm lời hát, với nhiều chủ đề khác nhau: từ kể lại một tích truyện cổ (hát ru kể truyện thơ Nàng Ờm – chàng Bồng Hương, Nàng Nga – Hai Mối…) đến ca ngợi cảnh đẹp tự nhiên, hay bày tỏ tâm tư tình cảm của con người. Hai thể thức hát chính là hát ngâm (ngâm thơ tự do hoặc lục bát) và hát nói (lời có vần điệu, lời đồng dao…).
Những bài hát ru của các dân tộc cư ngụ dọc theo dãy Trường Sơn cũng hết sức đa dạng, có giai điệu chung là mềm mại, bình ổn, tốc độ chậm rãi. Khúc thông thường gồm hai câu nhạc ứng với hai lời ca. Một số bài có lời mở đầu và kết thúc biểu thị tiếng ru, tiếng dỗ dành, tiếng nựng con…, như bài Ru con (Cơ Tu) với “mẹ ru con ngoan ơi ơi ơi hời”; Ru con (Xơ Đăng) với “con ơi, con nín đi con”…
VII. Kết hợp Hát ru các miền vào lĩnh vực âm nhạc
Bên cạnh đó, những điệu hát ru dân gian cũng truyền cảm hứng cho các sáng tác hiện đại. Nhiều nhà văn, nhà thơ đã sưu tầm nhiều lời ru cũ, đặt lời mới như nhà thơ Lê Giang, Lệ Vân, Ngọc Sương,... Lối kết hợp làn điệu hát ru các miền vào lĩnh vực sáng tác âm nhạc, đặc biệt ở lĩnh vực ca khúc với một số tác phẩm điển hình và khá nổi tiếng (Mẹ yêu con – Nguyễn Văn Tý; Hát ru – Tô Vũ; Lời ru trên nương – Nguyễn Khoa Điềm…), thậm chí có một số kiểu hát ru kết hợp cả phong cách nhạc nhẹ từ nhạc Estrade đến nhạc Rock... ở Liên hoan Hát ru toàn quốc năm 1992 cũng mang đến những sắc thái đa dạng, phong phú cho loại hình âm nhạc dân gian này.
Audio : Mẹ Yêu Con (Nguyễn Văn Tý) – Thu Hiền
VIII. Hát ru trong ý nghĩa văn học
Trong ý nghĩa văn học, hát ru trở thành biểu tượng cho truyền thống, quê hương, và tấm lòng người mẹ:
“Mai rồi con lớn khôn
Trên đường xa nắng gắt
Lời ru là bóng mát
Lúc con lên núi thẳm
Lời ru cũng gập ghềnh
Khi con ra biển rộng
Lời ru thành mênh mông”
(Xuân Quỳnh);
hay
“Ta đi trọn kiếp con người/
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru…”
(Nguyễn Duy).
Lời hát ru trở thành nguồn nuôi dưỡng và hình thành nên tâm hồn, tính cách con người; là điểm tựa tinh thần mỗi khi con người nhớ về ấu thơ và nơi chôn nhau cắt rốn.
IX. Cấu trúc Hát Ru 3 miền Bắc- Trung- Nam
Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, người Kinh vốn là tộc người chiếm đa số và cũng là nhóm đại diện với nhiều điệu Hát Ru hơn các tộc anh em khác. Đi dọc chiều dài đất nước, sẽ thấy có tới 3 làn điệu Hát Ru ứng với 3 miền Bắc- Trung- Nam, in đậm dấu ấn thổ ngữ mỗi vùng. Đó là Hát Ru Bắc Bộ, Hát Ru Trung Bộ và Hát Ru Nam Bộ. Ở đây, do dấu giọng vùng miền chi phối, nên đã hình thành những cấu trúc giai điệu khác nhau, phù hợp với thanh điệu cũng như thẩm mỹ âm điệu từng nơi
Nhìn chung, dù đường tuyến giai điệu mỗi miền một khác, nhưng cả 3 làn điệu Hát Ru Bắc- Trung- Nam đều có cấu trúc đồng dạng: Mỏ - Tiếp – Diễn – Đóng. Trong đó, Tiếp diễn chính là phần “gan ruột” của làn điệu, nơi người hát vận thơ thành lời ca để hát Ru.
Cũng như nhiều làn điệu âm nhạc dân gian nói chung, Hát Ru dùng thơ lục bát- một thể thơ dễ làm, dễ thuộc để đặt lời ca. Bên cạnh đó, người ta cũng có thể dùng thơ lục bát dạng biến thể hay đôi khi dùng cả song thất lục bát. Nhưng những trường hợp đó không phổ biến vì được coi là khó hát. Bởi việc thêm từ hay đổi cấu trúc nhịp thơ ở mỗi vế sẽ gây nên sự xáo trộn nhất định. Thế nên người hát phải đủ tài ứng vận để đảm bảo đúng âm điệu của đường tuyến cơ bản.
A. Hát ru Bắc bộ
À ơi...
Con cò mày đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm Lộn cổ xuống ao
À ơi...Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
À ơi...Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con...
Audio : “ Con cò mày đi ăn đêm “
Cái cò cái vạc cái nông
Sao mày giẫm lúa nhà ông hả cò
Không không, tôi đứng trên bờ
Mẹ con nhà nó đổ ngờ cho tôi
Chẳng tin thì ông đi đôi
Mẹ con nhà nó còn ngồi đằng kia.
Audio : “ Cái cò cái vạc cái nông “
Cái ngủ mày ngủ cho ngoan
Để mẹ đi cấy đồng xa trưa về
Bắt được con trắm con trê
Thòng cổ mang về cho cái ngủ ăn
Cái ngủ ăn không hết để dành đến tết mùng ba
Mèo già ăn vụng, mèo ốm phải đòn
Mèo con phải vạ, con quạ chết trôi
Con ruồi đứt cánh, đòn gánh có mấu
Củ ấu có sừng, châu chấu có chân
Bồ quân có rễ, cây nghệ có hoa
Cây cà có trái
Con gái có chồng, đàn ông có vợ
kẻ chợ buôn bè
cây tre có lá, con cá có vây
Ông thầy có sách, thợ gạch có dao
Thợ cào có búa, xay lúa có giàn
Việc làng có mỡ, ăn cỗ có phần
cái ngủ mày ngủ cho lâu à…ơi…à…ơi
Audio : “ Cái ngủ mày ngủ cho ngoan “
B. Hát ru Trung bộ
À ơi… Ru em em théc cho muồi
Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh
Chợ Dinh bán áo con trai
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.
Mẹ bồng con lên non ngồi cầu Ái Tử
Vợ trông chồng ra đứng núi Vọng phu
Biết răng trừ nguyệt xế trăng lu
Ve kêu mùa hạ, biết mấy thu mới gặp chàng!
Audio : “ Ru em “
C. Hát ru Nam bộ
Ầu ơi... ví dầu
Cầu ván đóng đinh
Cầu treo lắc lẻo
Gập ghềnh khó qua...
Ầu ơ i..
Khó qua mẹ dắt con qua...
Con đi trường học
Mẹ đi trường đời...
Audio : “ Ví dầu cầu ván đóng đinh “
Bài hát ru con kinh điển của người phụ nữ miền Nam – Lý Bốn Mùa:
Gió mùa thu.. mẹ ru mà con ngủ..
Năm canh chày.. năm canh chày.. thức đủ vừa năm..
Hỡi chàng chàng ơi.. hỡi người người ơi..
Em nhớ tới chàng.. em nhớ tới chàng..
Hãy nín nín đi con
Hãy ngủ ngủ đi con
Con hời mà con hỡi.. con hỡi con hời..
Con hỡi con hời.. con hỡi con..
Chí làm trai.. say mê mà giữ nước..
Em nỡ dạ nào.. em nỡ dạ nào.. trách mối tình ai..
Hỡi chàng chàng ơi.. hỡi người người ơi..
Em nhớ tới chàng.. em nhớ tới chàng..
Hãy nín nín đi con
Hãy ngủ ngủ đi con
Con hời mà con hỡi.. con hỡi con hời..
Con hỡi con hời.. con hỡi con..
Đến mùa xuân.. trong cơn mà gió thắm..
Cha con về.. là cha con về.. con nắm tay cha..
Hỡi người người ơi.. hỡi chàng chàng ơi..
Em nhớ tới chàng.. em nhớ tới chàng..
Hãy nín nín đi con
Hãy ngủ ngủ đi con
Con hời con hỡi.. con hỡi con hời..
Con hỡi con hời.. con hỡi con.
Audio : “ Lý ru con (Lý bốn mùa) “
X. Những ý nghĩa ẩn chứa trong những câu ru
1. Để giải bày những nỗi niềm trong lòng của các bà mẹ :
Đứng về góc cạnh khoa học tâm lý, Hát Ru Con còn là một phương tiện hữu hiệu nhất dành cho các bà mẹ Việt Nam giải bày bộc lộ những nỗi niềm ẩn khuất sâu thẳm trong lòng từ những ảnh hưởng của cuộc sống hàng ngày mà tự thân họ khó bề thổ lộ cùng ai vì phải thủ phận theo khuôn phép của người phụ nữ phương Đông. Đôi khi những giải bày của họ vang vọng đến não lòng. Chúng ta hãy cùng lắng nghe:
Ầu ơ… Ví dầu cầu ván đóng đinh…
Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi…
Ầu ơ… Khó đi mẹ dắt con đi…
Con đi trường học, mẹ đi trường đời.
Ầu ơ… Gió đưa bụi chuối sau hè…
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ…
Ầu ơ… Con thơ tay ẵm tay bồng…
Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông.
Audio : “ Gió đưa bụi chuối sau hè “
Ầu ơ… Gió đưa bông cải về trời…
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.
Audio : “ Gió đưa bông cải về Trời “
Ầu ơ… Ví dầu tình bậu muốn thôi…
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra.
2. Những câu ru về lòng hiếu đạo:
Ầu ơ… Chim đa đa đậu nhánh cây đa…
Chồng gần sao không lậy lại lậy chồng xa…
Ầu ơ… mai sau cha yếu mẹ già…
Chén cơm đôi đủa bộ kỷ trà ai dâng.
Audio : “ Chim đa đa đậu nhánh đa đa “
Ầu ơ… Công cha như núi Thái Sơn…
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…
Ầu ơ… Một lòng thờ mẹ kính cha…
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Audio : “ Công cha như núi Thái Sơn “
Ầu ơ… Má ơi đừng đánh con đau…
Để con bắt ốc hái rau má nhờ.
Audio : “ Má ơi đừng đánh con đau “
Ầu ơ… Chiều chiều ra đứng ngõ sau…
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Ầu ơ… Chiều chiều chim vịt kêu chiều…
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.
3. Những câu ru về đồng quê sông rẫy:
Ầu ơ… Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng…
Về sông ăn cá về đồng ăn cua.
Audio : “ Gió đưa gió đẩy “
Ầu ơ… Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời trông đất trông mây
Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng.
Ầu ơ… Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.
Audio : “ Người ta đi cấy lấy công “
Tài liệu tham khảo:
Lê Giang, Lê Anh Trung, Những bài hát ru, Nxb. Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1991.
Trần Hữu Sơn, Văn hóa H’Mông, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1996.
Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb. Văn Học, Hà Nội, 2005.
Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Hát ru Việt Nam, Nxb. Trẻ, Hà Nội, 2005.
Lê Vân, Hát ru ba miền, Nxb. Phụ Nữ, Hà Nội, 2006.
Toan Ánh, Nếp cũ, Nxb. Trẻ, Hà Nội, 2011.
Hoàng Minh Tường (sưu tầm, tuyển chọn), Hát ru dân tộc Mường Thanh Hóa, Nxb. Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2016.
Audio :
* Hát Ru Bắc Bộ - Thu Hiền
* Hát Ru Huế - Ngọc Thanh
* Hát Ru Nam Bộ - Bích Phượng