Lịch Sử Quan Tiền .

Công Tử miệt vuờn (sưu tầm và tổng hợp )

“ Bùi Viện chết để lại một khoảng trống nhân sự cho triều đình Huế, vì sự nghiệp của ông không ai thừa tự nổi! Đồng thời ông cũng để lại một khoảng trống trong ngân sách, vì số tiền do ông quản lý điều hành đã hụt mất 360.000 quan ! ( Bài viết của Hồ công Truờng)

Cóc ngậm đồng tiền

Chúng ta cùng nhau tham khảo các tài liệu sau đây để tìm hiểu giá trị của một quan:

Trong thi ca chúng ta có bài thơ xướng họa

Nữ sĩ Hồ xuân Huơng xuớng:

Sao nói rằng năm chỉ có ba.

Trách người quân tử hẹn sai ra.

Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt.

Nhớ hái cho xin nắm lá đa.

Chiêu Hổ họa lại:

Rằng gián thì năm, quý có ba.

Bởi người thục nữ tính không ra.

Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt.

Cho cả cành đa lẫn củ đa.

Ở đây ta thấy có hai từ Gián và Quý, theo tìm hiểu thì khoảng thế kỷ 18 dưới triều vua Minh Mạng có hai loại tiền lưu hành: tiền quý và tiền gián, tỷ lệ như sau:

- 1quan quý = 600đồng.

- 1 quan gián chỉ bằng 360 đồng.

Khi hỏi mượn tiền Như Hổ, bà chúa Thơ Nôm Hồ Xuân Hương chỉ nói mượn 5 quan, không nói là quan gì, nên Chiêu Hổ cho mượn số tiền cũng 5 quan nhưng giá trị thấp hơn:

- Quan quý: 3 x 600 = 1800 đồng

1800 : 360 = 5 quan gián

Thời nhà Lê thì một quan là 10 tiền. Một tiền quý (tức cổ tiền) là 60 đồng nên một quan là 600 đồng. Tỷ số này áp dụng trong mọi hối đoái giữa dân chúng và chính quyền như tiền nộp sổ để thí sinh đi thi, thuế má, v..v...

Trong khi đó nếu chi tiêu trong dân chúng thì hay dùng tiền gián (tức sử tiền) với một quan chỉ có 360 đồng.

Hệ thống đơn vị này từ đó được dùng ổn định trong các đời vua sau, qua nhà Mạc, thời Lê trung hưng tới khi nhà Nguyễn chấm dứt, nghĩa là trong hơn 500 năm, đến lúc chế độ phong kiến Việt Nam kết thúc

Trong khi các triều đại Việt Nam từ thời nhà Hậu Lê trở đi định giá một quan tiền quý là 600 đồng thì bên Trung Hoa một quan tiền là 1000 đồng và tỷ lệ hối đoái là một quan tiền có giá trị bằng một lạng bạc ròng.

Suốt một ngàn năm Bắc thuộc, dân Việt không có đồng tiền riêng . Mãi đến sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán ,dân Việt vẫn còn dùng đến đồng tiền của phương Bắc.

Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi xưng đế Đinh Tiên Hoàng, niên hiệu Thái Bình. Năm 970 nhà vua đã cho đúc những đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo. Đây chính là những đồng tiền đầu tiên của người Việt.Từ đó tiếp đến những triều đại sau đều theo .

Đơn vị để tính tiền xưa gồm có : quan, tiền, đồng. Mỗi quan có giá trị là 10 tiền, mỗi tiền bằng bao nhiêu đồng tùy theo quy định của mỗi thời đại.Theo sử sách giá trị đồng tiền các thời đại như sau:

1/ Năm 1225,vua Trần Thái Tông định phép dùng tiền.1 quan bằng 10 tiền.1 tiền bằng 70 đồng.

2/ Năm 1428 vua Lê Thái Tổ cho đúc tiền Thuận Thiên.1 quan bằng 10 tiền.1 tiền bằng 50 đồng.

3/ Năm 1439,vua Lê Thái Tông quy định 1 quan bằng 10 tiền ,1 tiền bằng 60 đồng.

Như vậy 1 quan =10 tiền = 600 đồng.

Từ đó các triều đại về sau, mỗi khi đúc một loại tiền mới đều theo tỷ lệ này,cho đến cuối triều Nguyễn năm 1945. Chỉ có tên đồng tiền là thay đổi theo tên hiệu.

Năm 1905 ,chính quyền bảo hộ Bắc kỳ cho phát hành loại tiền đúc bằng hợp kim kẽm. Loại tiền này mặt trước in chữ Pháp,mặt sau ghi chữ Hán, có giá trị tương đương các loại tiền đồng như Gia Long Thông Bảo, Minh Mệnh Thông Bảo, Thiệu Trị Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo.

Trong những đời vua sau của nhà Nguyễn còn có thêm hai đồng tiền khác là Khải Định Thông Bảo và Bảo Đại Thông Bảo, hai loại tiền này không đúc như những đồng tiền xưa mà được dập bằng máy dập nhập từ Pháp.

Một Quan ngày xưa rất to:

Để biết thêm giá trị của các loại tiền xưa ta hãy tham khảo số liệu về lương tiền dưới triều vua Minh Mạng.

- Quan Nhất Phẩm lãnh mỗi năm 400 quan, 300 phương gạo, 70 quan tiền Xuân Phục, tức tiền áo quần.

- Quan Chánh ngũ phẩm, hàng tri phủ mỗi năm lương 40 quan, 43 phương gạo, 9 quan tiền Xuân Phục.

- Lính, thơ lại, phục dịch ...lương mỗi tháng 1 quan tiền,1 phương gạo.

Thời Tiểu học, chúng ta có một bài học thuộc lòng " Đi chợ tính tiền " trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, bản in xuất bản năm 1948 . Đây là bài thơ lục bát kể chuyện một người phụ nữ đi chợ về tính việc chi tiêu với chồng. Qua những số liệu trong bài ta có thể nghĩ rằng bài thơ khuyết danh này xuất hiện từ thời vua Minh Mạng. Hồi còn là học sinh lớp đồng ấu, tôi thắc mắc mãi câu: " Một quan tiền TỐT mang đi "( tiền sao lại có tiền tốt, tiền xấu ???), chắc các bạn cũng có cùng suy nghĩ như tôi? Giờ đây chúng ta đã có câu giải đáp: tiền Tốt tức là tiền Quý 600 đồng, để phân biệt với tiền Gián chỉ có 360 đồng.

Đi chợ tính tiền

Một quan tiền tốt mang đi, 600 đồng

Nàng mua những gì mà tính chẳng ra.

Thoạt tiên mua ba tiền gà, 3 x 60 = 180 đồng

Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu. 60 + 30 + 3 = 93

Trở lại mua sáu đồng cau, = 6

Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng. (1,5 x 60) + 10 = 100

Có gì mà tính chẳng thông?

Tiền rưỡi gạo tẻ, sáu đồng chè tươi. 60 + 30 + 6 = 96

Ba mươi, đồng rượu chàng ơi, = 30

Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng. 30 + 20 = 50

Hai chén nước mắm rõ ràng,

Hai bảy mười bốn, kẻo chàng hồ nghi. 2 x 7 = 14

Hai mươi mốt đồng bột nấu chè, = 21

Mười đồng nải chuối, chẵn thì một quan. = 10

Cộng : 600 đồng

Giá trị của một quan sẽ giúp ta thêm yêu mến nguời phụ nữ Việt Nam qua bài "Trăng sáng vuờn chè" của nhạc sĩ Văn Phụng ( thơ Nguyễn Bính ) với câu: " Một quan là 600 trăm đồng, chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi "... và mong cho chàng sĩ tử đổ trạng vinh qui thì mới thật là "ai đem trăng sáng... rãi lên vuờn chè"

(*và ** trích tài liệu "Lịch sử tiền tệ VN" )

Nguồn : tongphuochiep71.



Trở lại Trang Chính