Ngày xưa, khi Xuân về Tết đến, người ta thường treo những câu đối Xuân để đón Tết. Những câu đối này cũng là để trang hoàng nhà cửa cho đẹp cùng với những bức tranh như Tranh Gà “Trang hoàng trên vách bức tranh gà …

Thường người ta đến xin Ông Đồ hay người hay chữ trong làng một hai câu đối về để dán lên cột, thuờng là hai cột hai bên bàn thờ Gia Tiên.

Thường thì những câu đối này viết bằng chữ Nho và không có phiên âm hay dịch nghĩa, mỗi vế gồm 4 chữ, 5 chữ hay 7 chữ, ...

Sau này các câu đối viết bằng chữ Quốc ngữ thì viết kiểu cọ theo lối “Thư pháp” rất đẹp, những nét chữ Quốc ngữ “Thư pháp” cũng sống động“như phượng múa rồng bay” ...

Các cụ nhà Nho thì thuờng tự đặt ra những câu đối, như Trần Tế Xương có xác nhận trong bài “Tết dán câu đối”:

Nhập thế cục bất khả vô văn tự

Chẳng hay ho cũng húng hắng một vài bài

Huống thân danh đã đỗ tú tài

Ngày Tết đến cũng phải một vài câu đối …

Về nội dung, các câu đối Xuân thuờng mang những lời cầu chúc cho gia quyến bình yên, hạnh phúc, gặp nhiều may mắn trong năm mới, … làm ăn buôn bán phát tài phát lộc, hoặc chúc con cháu đông vui, ông bà sống lâu trăm tuổi, v.v...

4 chữ:

Xuân phong tống phước

Hỷ khí lâm môn

Vạn phương hữu cát

Tứ quý trình tường

Nhân tăng thọ kỷ

Thiên chuyển dương hòa

Tứ thời cát khánh

Bái tiết an khang

Phát phúc sanh tài

Đồi kim tích ngọc

Bách nghiệp hưng vượng

Ngũ cốc phong đăng

5 chữ:


Minh niên tăng vạn lộc

Xuân nhật tập thiên tường

Phúc lai miên thế trạch

Lộc mãn trấn gia thanh

Niên niên như ý xuân

Tuế tuế bình an nhật

7 chữ:

Xuân tái đáo, môn tiền phúc đáo

Hoa hựu khai, thiên ngoại thi khai

Lộc tiến vinh hoa gia đường thịnh

Phúc sinh phú quý tử tôn vinh

Tài lộc dẫn đến sự vinh hoa, nhà thì ngày một thêm thịnh đạt;

Phúc sinh ra sự phú quý, con cháu trở nên vinh hoa.

Ngoài những nội dung cầu chúc trên, câu đối Xuân cũng là để nhắc nhở con cháu về Luân Thường Đạo Lý, tưởng nhớ đến Tổ Tiên, Tôn Sư Trọng Đạo, lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, thuận thảo với anh em, , v.v...

Như những câu:

Tiên tổ phương danh lưu quốc sử

Tử tôn tích đức hiển gia phong

Tổ tiên để lại tiếng thơm trong sử sách; Con cháu tích đức thì gia phong được hiển hách



Niên hữu tứ thời Xuân tại thủ

Nhân sinh bách hạnh Hiếu vi tiên

Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa Xuân;

Con người có trăm đức hạnh, nhưng lòng hiếu thảo đối với cha mẹ là trên hết.


Hoặc những câu đối ở các chùa chiền:

Mừng xuân hỉ xả thêm công đức

Đón Tết từ bi bớt não phiền

Pháp luân vô ánh oanh thiên hạ

Tâm niệm vô thanh chấn tứ phương

Pháp luân tuy không có tỏa sáng nhưng có thể làm rung cả trời đất;

Tâm niệm tuy không phát ra thành tiếng nhưng nó có thể gây chấn động cả bốn phương

Hoặc đối với những ai tha hương trên đất khách quê người, nhưng vẫn luôn nhớ cội nguồn dân tộc ...


Xuân tha hương, vấn vương thương đất mẹ

Tết xa nhà, xao xuyến nhớ quê cha

Ngào ngạt mùi hương, dẫu tại đất người, không mất gốc

Lung linh ánh lửa, dù xa quê cũ, chẳng quên nguồn.



Xuân tha hương, nhấp giọt rượu sầu, nhớ vòm trời đất nước!

Tết xứ người, hớp ngụm cà-phê đắng, thương mảnh đất quê nhà!


Nói về sưu tập những câu đối Xuân đón Tết thì nhiều lắm.

Ngày nay người ta vn giữ truyền thống này nhưng ý nghĩa và mục đích có lẽ cũng thay đổi nhiều … Đặt viết hay mua những câu đối về để ... treo chơi, trang trí vậy thôi! Người ta làm … mình cũng làm theo vậy!

Thể theo lời yêu cầu của một số bạn, muốn biết thêm về câu đối, phép đối và làm câu đối thế nào, TLQuan xin được mạo muội viết ít lời, biết được bao nhiêu thì chép lại bấy nhiêu, có điều chi sai sót kính xin quý Thầy Cô cùng các bạn chỉ giáo cho.

Thật ra muốn viết về Câu Đối cho đầy đủ thì phải cả một bài viết riêng, có khi cả một quyển sách!

Câu Đối là một nét Văn Hóa đặc sắc (và cả nghệ thuật nữa) của người Việt Nam và của những dân tộc Á Đông như Trung Hoa, và có lẽ Nhật Bản, Triều Tiên (Đại Hàn) nữa?

Như chúng ta đã biết và đã từng thấy Câu Đối ở khắp nơi trên đất nước, trên những cột ở hầu hết các đền thờ, đình miếu, chùa chiền, ... và ngay cả ở tư gia, ở những căn nhà xưa cổ kính (và ngay cả bây giờ, ở những nhà "đại gia" mới nữa). Đa số những câu đối này đều bằng chữ Nho (Hán tự), có khi bằng chữ Nôm nữa!

Cổng Trường Petrus Trương Vĩnh Ký trước 1975 cũng có hai câu đối hai bên, bằng chữ Nho.

Năm 1951, Thầy Ưng Thiều, Giáo Sư Hán văn, đặt hai câu đối để chỉ rõ đạo đức học tập và trí dục cho học sinh, được Ông Hiệu Trưởng Phạm Văn Còn chọn khắc trước cổng trường như sau:

孔孟綱常湏刻骨

西歐科學要銘心

Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt

Tây Âu khoa học yếu minh tâm

Sau 1975, đổi tên Trường là Lê Hồng Phong, họ đã đục bỏ hai câu đối trước cổng Trường thật là uổng hết sức! Họ không biết Tôn Sư Trọng Đạo, họ không tôn trọng Đạo Đức, Học Vấn, Văn Hóa, và bảo tồn Văn Hóa và bảo tồn gì cả!

(Xin kèm hình bìa Đặc San Petrus Ký số 8 có hình cổng Trường trước 1975 có hai câu đối này).

Khi xưa người ta thuờng làm câu đối trong những dịp quan hôn tang tế: tặng câu đối để mừng sinh nhật, mừng thọ 40 tuổi, 50, 60, 70, 80 tuổi, v.v... mừng đựơc thăng quan tiến chức, đám cưới đám hỏi, v.v... hoặc đi phúng điếu tang lễ, ... hoặc để “thử tài” văn chương chữ nghĩa, ứng đáp nhanh, v.v...

Trong phép làm thơ việt Nam, cũng dùng câu đối nữa:

1/ Trong một bài Hát Nói (hay còn gọi là Hát Ả Đào hay Ca Trù), Câu 5 và câu 6 bắt buộc phải là hai câu đối. Có thể tự làm hoặc thuờng lấy từ những bài thơ khác. Thường hai câu đối này bằng chữ Nho (viết Hán tự Chinese Characters và âm tiếng Hán Việt). Hai câu đối này thuờng là đề tài chính (Topic sentences) của bài Ca trù, từ đó mới khai triển ý …

2/ Trong một bài thơ Đường Luật, Bát cú (8 câu), có thể thất ngôn (7 chữ) hay ngũ ngôn (5 chữ), hai câu Thực (câu 3 và 4) và hai câu Luận (câu 5 và câu 6) phải là hai cặp câu đối.

3/ Câu đối cũng được dùng nhiều trong nhiều thể văn khác như Văn Tế và Phú ...

Trong các thể văn này, nhất là Phú, không những có những cặp hai câu đối nhau, mà nhiều khi, hai đoạn trong cùng một câu cũng đối nhau.

Từ ngữ đối có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi.

Như tiếng Anh gọi Câu đối là “Paralleles”, một câu đối gồm 2 vế là hai câu song song với nhau.

Một đôi câu đối gồm hai câu đi song song nhau, mỗi câu là một vế.

- Nếu do một người sáng tác gọi là vế trênvế dưới.

- Nếu một người nghĩ ra một vế để thách đối thì gọi là vế ra hoặc vế thách đối và vế đối là câu người khác đối lại với vế ra.

- Nếu chỉ có 1 vế mà gọi là “câu đối” thì không chính xác.

Như trong Câu đối Tết:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ

Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh

Câu đối đỏ” ý nói câu đối có đủ hai vế.


Trong câu đối, hai vế đối song đôi với nhau thế nào để được cân xứng nhau về từ ngữ, thanh âm, cấu trúc câu, ngữ pháp và ý nghĩa.


1/ Đối ý: hai ý tưởng cân xứng nhau

2/ Đối từ ngữ, loại từ:

- danh từ đối với danh từ

- động từ đối với động từ

- tính từ đối với tính từ

- trạng từ đối với trạng từ

- v.v...

- Lại nữa, về loại từ, trong tiếng Việt phải xét đến các từ ngữ Hán Việt và các từ ngữ tiếng Nôm.

Vế đối ra dùng tiếng Hán Việt thì vế đối cũng phải dùng tiếng Hán Việt, vế ra dùng tiếng Nôm thì vế đối cũng phải dùng tiếng Nôm.

- Lại còn tiếng lóng nữa (slang, argot), vế ra dùng tiếng lóng, vế đối cũng phải dùng tiếng lóng.

3/ Đối về cấu trúc câu, ngữ pháp (Grammar, Grammaire)

- Chủ ngữ đối với chủ ngữ (subject of a verb, sujet du verbe)

- Bổ ngữ đối với bổ ngữ (object of a verb, complément d'objet)

- Thể Chủ động đối với thể Chủ động (active voice, voix active)

- Thể Bị động đối với thể Bị động (passive voice, voix passive)

- v.v...

4/ Đối Thanh

Trong tiếng Việt, thanh âm rất quan trọng. Các câu nói, câu thơ, câu hát đưa em, hát ru, dân ca, đồng dao, v.v... có nghe hay hoặc không hay là nhờ vào thanh âm phong phú lên bổng xuống trầm của tiếng Việt.

Về thanh âm, tiếng Việt có 6 thanh âm chính gồm 2 thanh bằng, 4 thanh trắc và 2 thanh âm phụ gọi là thanh nhập, cùng 3 bậc âm thanh chính gồm bậc bổng, bậc trung (ngang) và bậc trầm, gồm trầm thượng và trầm hạ.

Trong phạm vi bài này chỉ xin nói sơ về 2 Thanh Bằng Trắc.

Thanh Bằng: những chữ không dấu và những chữ có dấu huyền

Thanh Trắc: những chữ có dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã và dấu nặng

Trong phép đối,

Hễ vế trên ra những chữ Thanh Trắc thì vế đối, đối lại phải dùng những chữ Thanh Bằng ; và ngược lại, vế trên ra Thanh Bằng, vế đối phải dùng những chữ Thanh Trắc.

Nhất là chữ cuối của hai vế và những chữ ở những chỗ ngắt câu.

Để hiểu rõ về các phép đối như trên, xin phân tích hai câu Luận (câu 5 và câu 6) đối nhau rất chỉnh trong bài "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan.

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia


1/ Về ý, tình cảnh và tâm trạng như nhau trong hai câu: “Nhớ nước”, “Thương nhà”.

2/ Về loại từ và văn phạm, cấu trúc câu:

- “Thương nhà” đối với “nhớ nước

- “mỏi miệng” đối với “đau lòng” (tả tâm trạng, cảm giác)

- “cái gia gia” tức con chim đa đa, danh từ đối với “con quốc quốc” là chim quốc, danh từ, loài chim đối với loài chim

- hai chữ “quốc quốc” lặp lại, cũng phải đối bằng hai chữ lặp lại “gia gia

- Về tiếng Hán Việt và tiếng Nôm,

“gia” 家 là tiếng Hán việt tương ứng với tiếng Nôm “nhà” - “gia” 家nghĩa là “nhà” đối chỉnh với “quốc” 國(国) là tiếng Hán Việt tương ứng với tiếng Nôm “nước” – “quốc” 國(国) nghĩa là “nước” (đất nước, không phải là nước uống - water).

Để nói rõ hơn về phép đối, TLQuan xin chép lại một đoạn phân tích một câu đối trong đó có đối các chữ nói lái (những chữ tô đậm):

Chợ Thủ Đức năm canh thức đủ

Bến Đồng Tranh sáu khắc đành trông

Chợ Thủ Đức năm canh thức đủ.

t t t b b t t

Bến Đồng Tranh sáu khắc đành trông.

t b b t t b b

(t : trắc ; b : bằng)

Câu đối này hay, vì:

1- Âm thanh đối nhau:

Chợ (hạ thanh), đối với Bến (thượng thanh)

Thủ Đức (trắc), đối với Đồng Tranh (bằng)

Năm canh (bằng), đối với sáu khắc (trắc)

Thức đủ (trắc), đối với đành trông (bằng)

Tiếng trên thuộc hạ thanh thì tiếng dưới thuộc thượng thanh.

Tiếng trên trắc thì tiếng dưới phải bằng và ngược lại.

2- Loại từ phải đối nhau:

Danh từ đối danh từ: trên chợ thì dưới bến

Địa danh đối địa danh: Thủ Đức // Đồng Tranh

Số từ đối số từ: năm canh // sáu khắc

Động từ đối động từ: thức // trông

(//: đối, đối với)

3- Tiếng lái đối tiếng lái:

Thủ Đức // thức đủ

Đồng Tranh // đành trông

(//: đối, đối với)

(Trích Tìm hiểu tiếng Việt, chữ Việt của chúng ta, tác giả Tiền Vĩnh Lạc, Nhà Xuất Bản Tiền Lê, 2017)

Xin xem thêm những phân tích v các câu đối ghi lại sau đây (câu của Petro Nguyen và các vế đối lại câu của bạn Minh Hà).


Lại một rắc rối nữa:

- Người ra câu thách đối dùng các chữ trong một “bộ đề tài” (TLQuan không biết dùng chữ gì cho đúng?) thì khi đối lại cũng phải dùng các chữ trong một “bộ đề tài” khác để đặt vế đối.

Thí dụ như câu thách đối của bạn Minh Hà, dùng những chữ trong 12 Địa Chi (12 con Giáp)

Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần dần

Cũng như trong bài email của Petro Nguyen, có nhắc đến câu thách đối thân phụ của Petro Nguyen kể lại:

Ra cửa Đông Nam, Tây Bắc lại

Người ra câu đối dùng những chữ trong "bộ đề tài" phương hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc.

Để đối lại, phải dùng những chữ trong một "bộ đề tài" khác.

Thí dụ TLQuan xin dùng đề tài "Cầm Kỳ Thi Tửu" để thử đối

Ra cửa Đông Nam, Tây Bắc lại

Vào bàn Thi Tửu, Kỳ Cầm theo


* Phân tích 2 Vế đối này:

1/ Đối từ ngữ, loại từ:

1.1.

- Vế ra dùng Đông Tây Nam Bắc chỉ phương hướng, đều là danh từ

- Vế đối phải dùng những chữ cùng một đề tài khác, cùng đều là danh từ

Cầm Kỳ Thi Tửu (đề tài những thú vui chơi: Đàn, Đánh cờ, Làm thơ, thưởng thức rượu ngon - Có khi người ta dùng Họa, Hội Họa, thay vì Tửu, nhậu xỉn xỉn!)

- Lại nữa, về loại từ, trong tiếng Việt phải xét đến các từ ngữ Hán Việt và các từ ngữ tiếng Nôm.

Vế đối ra dùng tiếng Hán Việt thì vế đối cũng phải dùng tiếng Hán Việt, vế ra dùng tiếng Nôm thì vế đối cũng phải dùng tiếng Nôm.

Vế ra, những chữ về phương hướng đều là tiếng Hán Việt

Vế đối, những chữ Cầm Kỳ Thi Tửu cũng đều là tiếng Hán Việt

1.2.

“Ra cửa” đối với “Vào bàn”

- “ra” là động từ đối với “vào” cũng là động từ, “ra”, “vào” đều là tiếng Nôm

- “cửa” đối với “bàn”, đều là danh từ và đều là tiếng Nôm.

2/ Đối Thanh:

“Ra cửa” – (X) Trắc đối với “Vào bàn” – (X) Bằng

“Đông Nam” – (X) Bằng đối với “Thi Tửu” – (X) Trắc

“Tây Bắc lại” – (X) Trắc Trắc đối với “Kỳ Cầm theo” – (X) Bằng Bằng

(X): những chữ này không cần phải đối Thanh

3/ Đối ý:

Ra cửa Đông Nam, Tây Bắc lại

Khi đi ra cửa Đông Nam, thì bị lính Tây bắt lại

Vào bàn Thi Tửu, Kỳ Cầm theo

Khi vào bàn “nhậu”, uống rưu ngâm thơ, thì cũng cầm theo bàn cờ tướng (Kỳ).

(Nhưng nếu bắt bẻ về ý thì hoàn cảnh tả trong hai vế không có liên quan gì với nhau hết!)

4/

Nếu xét 3 tiêu chuẩn trên thì vế đối này khá chỉnh.

Nhưng nếu xét về chính tả và văn phạm thì vế đối này chưa được chỉnh, vì những điểm sau:

1. Cách dùng từ ngữ

“Tây” đối với “Kỳ”

Dùng từ đồng âm khác nghĩa:

- chữ “Tây” chỉ phương hướng, dùng để chỉ người Pháp, lính Pháp

- vế đối không dùng từ đồng âm khác nghĩa, chữ “Kỳ” nghĩa là bàn cờ tướng.

2. Dùng chữ đồng âm nhưng sai chính tả:

- chữ “Bắc” chỉ phương hướng, dùng là động từ “bắt”, phải đổi cách viết “bắt

- vế đối, dùng chữ “cầm” là động từ, đúng chính tả, không cần đổi cách viết

3. Về cấu trúc câu (văn phạm):

- Vế ra “Tây bắt lại”

“Tây” là chủ ngữ (subject, sujet) của động từ “bắt” - Tây bắt người đi ra cửa Đông Nam.

- Vế đối “Kỳ cầm theo”

“Kỳ” là bổ ngữ trực tiếp của động từ “cầm” (subject, complément d'objet direct) - Người đi vào bàn nhậu cầm theo bàn cờ tướng (Kỳ).

Trở lại câu đối của bạn Minh Hà

Chào bạn Minh Hà,

Cám ơn bạn gởi câu thách đối cho Đặc San Khoa học Xuan Canh Tý 2020 và mời quý Thầy Cô và các bạn đối chơi cho vui.​

Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần dần.


Trước hết Quan xin ghi lại nghĩa câu thách đối theo sư suy diễn và hiểu biết của mình.

- Câu này dùng toàn tên các Địa Chi để ra vế đối

(Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi)

- Dùng các tiếng đồng âm và biến âm để câu có nghĩa:

​ - Đồng âm:​

Tý Tỵ - đồng âm “tí tị” có nghĩa một ít, một chút xíu, tí xíu,

Mùi - đồng âm “mùi”: mùi vị, mùi huơng, mũi ngửi được​

Thân - đồng âm “Thân”, Thân thể​

Dần - đồng âm “dần” có nghĩa từ từ, lần lần, ​

- Biến âm:​

Sửu - biến âm “xỉu” có nghĩa mệt quá xỉu, bất tỉnh​

- Giữ nguyên từ, nhưng hiểu theo nghĩa khác:​

Hợi, Ngọ là tên hai Địa Chi, nhưng có thể hiểu là con heo và con ngựa (Heo biểu trưng cho chi Hợi, tiếng Hán Việt là “trư”, cũng như Ngựa biểu trưng cho chi Ngọ, tiếng Hán Việt là “mã”).​

- Có thể hiểu vế thách đối này có nghĩa như sau:

Một chút xíu (tí tị) mùi của heo (Hợi) và một chút xíu (tí tị) mùi của ngựa (Ngọ), làm cho ta (thân) từ từ / lần lần (dần dần) bị "xỉu" (Sửu).

Vế thách đối, Minh Hà dùng các từ ngữ trong “bộ đề tài” Địa Chi, thì để đối, Thầy Chí dùng đề tài các nốt nhạc, TLQuan dùng Thiên Can và Bát Quái. Thầy Soạn dùng tên riêng.

Nhưng để đối cho thật chỉnh thì ... Khó lắm!

TLQuan cũng bắt chước dùng tên riêng, nhưng khó mà đối chỉnh lắm:

Ban đầu định viết “Tiền quan soạn chơi”, vì có ông bác bạn của Ba tên thật là Chơi, hay chơi chữ, người ta hỏi “Anh chơi đi đâu đó?” - Trả lời “Anh Chơi đi chơi ...”.

Nhưng hình như không có tên “Chơi” trong Nhóm Khoa Học, nên tạm dùng tên “Mơ”.

Tý tỵ mùi hợi, tý tỵ mùi ngọ, thân “xỉu” dần dần.

- Tiền quan soạn chi?

- Tiền quan soạn chơi!

Cần xin tiếc tiếc ...

- Soạn mấy đồng tiền quan để làm chi vậy?

- Soạn mấy đồng tiền quan đó để chơi vậy thôi!

Mà hễ có ai cần, xin (Sinh) mấy đồng tiền quan đó, nếu cho thì cũng tiếc (Tiết), không muốn cho.

Hoặc Cần Sinh Lý có xin mấy đồng tiền quan đó, nếu cho Cần Sinh Lý thì cũng thấy tiếc!

* Về hình thức thì vế đối này cũng tạm chỉnh, xét về đối Thanh thì cũng khá chỉnh:

- “Tiền quan” (Bằng) đối với “Tý Tỵ” (Trắc)

- “soạn” (Trắc) đối với “mùi” (Bằng)

- “chi”, “chơi” (Bằng) đối với “Hợi”, “Ngọ” (Thanh Trắc)

Nhưng nếu phân tích kỹ thì chỉ để ... chơi vậy thôi!

* Về đối ý thì ý vế đối không "dính dáng" gì với ý của vế ra.

* Về loại từ:

- “Tiền quan” là danh từ, không đối với “Tý Tỵ” là trạng từ được

- “soạn” là động từ không đối được với danh từ “mùi”

- cũng như “chi” và “chơi” không đối được với “Hợi” và “Ngọ”.

Chỉ có 3 chữ cuối tạm đối chỉnh:

- “Cần” (nếu là tên riêng) danh từ riêng tạm đối chỉnh với “Thân” là danh từ chung

- “xin” (biến âm chính tả của “Sinh”), động từ, Thanh Bằng, đối khá chỉnh với “xỉu” (Biến âm chính tả của “Sửu”), động từ, Thanh Trắc

- “tiếc tiếc” đối chỉnh về Thanh: Thanh Trắc đối với “dần dần”, Thanh Bằng

Nhưng lại không đối chỉnh về từ ngữ, phải viết lại chính tả tên riêng “Tiết”, trong khi chữ “Dần” ở trên không cần viết lại về chính tả.